Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 720/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 720/2022/DS-PT NGÀY 12/10/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 12 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 308/2022/TLPT- DS ngày 29 tháng 7 năm 2022 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất; hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DS-ST ngày 11/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1935/2022/QĐPT-DS ngày 28 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê P, sinh năm 1981 – Có mặt;

Địa chỉ: 188 Y, Khu phố Khánh Hiệp, thị trấn Khánh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận;

2. Bị đơn: Ông Võ Đằng L, sinh năm 1966 – Có mặt;

Địa chỉ: Thôn Mỹ Tường 1, xã N, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận;

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Lương Công T, sinh năm 1974 – Có mặt;

3.2. Anh Lương Đức T1, sinh năm 2005 – Vắng mặt;

3.3. Anh Lương Trọng T2, sinh năm 2007 – Vắng mặt;

Đều trú cùng địa chỉ bà Lê Phương và ủy quyền cho bà Lê P đại diện (Văn bản ủy quyền ngày 20/12/2019) – Có mặt;

3.4. Bà Trần Thị Thanh T3, sinh năm 1969 – Vắng mặt;

3.5. Chị Võ Thị Bích N, sinh năm 1992 – Vắng mặt;

3.6. Chị Võ Thị Ái T4, sinh năm 1997 – Vắng mặt;

3.7. Chị Võ Thị Anh T5 (Võ Thị Ái T5), sinh năm 2002 – Vắng mặt;

Đều trú cùng địa chỉ ông Võ Đằng L và đều ủy quyền cho ông Võ Đằng L đại diện (Văn bản ủy quyền ngày 10/02/2020) – Có mặt;

3.8. Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận;

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải: Ông Nguyễn Khắc Đông – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải (Văn bản ủy quyền số 6039/UQ-CTUBND ngày 01/12/2021), có văn bản yêu cầu xét xử vắng mặt;

4. Người làm chứng:

4.1. Ông Hồ C, sinh năm 1964 – Vắng mặt;

4.2. Ông Võ T6, sinh năm 1966 – Vắng mặt;

Cùng địa chỉ: Thôn Khánh Nhơn 1, xã N, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận;

5. Người kháng cáo: Bị đơn ông Võ Đằng L;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04/11/2019 và lời khai tiếp theo, nguyên đơn bà Lê P (đồng thời là đại diện của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lương Công T, Lương Đức T1, Lương Trọng T2) trình bày:

Năm 2008, vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của ông Võ T6 toàn bộ thửa đất số 95, diện tích 5.054 m2, tờ bản đồ số 30 xã N, gia đình bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 790695 ngày 16/9/2008. Khi nhận chuyển nhượng không có đo đạc trên thực địa. Tứ cận thửa đất giáp mương thoát nước lũ và đường Tỉnh lộ 702, phía Đông giáp đất ông Võ Đằng L, được ông Võ T6 xác định ranh giới bằng vài trụ xi măng, nhưng nay không còn. Vào năm 2014, Nhà nước thu hồi 426 m2 đất, diện tích còn lại là khoảng 4.628 m2.

Năm 2019, bà định xây hàng rào bao quanh đất, nhưng giữa bà với ông L không thống nhất được ranh giới đất. Bà đề nghị và được Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ninh Hải cho biết diện tích bà đang sử dụng là 3.848 m2, theo giấy chứng nhận thì còn thiếu 597 m2. Bà khởi kiện yêu cầu ông L trả lại diện tích đã lấn chiếm của bà đo đạc thực tế là 638,1 m2 theo Trích lục bản đồ địa chính kèm theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 03/11/2021.

Bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2008, còn ông L được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2014. Ranh giới giữa hai bên đã được xác định rõ ràng trên giấy lẫn thực địa, nên bà không đồng ý yêu cầu của ông L đòi hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà.

Tại Đơn yêu cầu phản tố ngày 21/9/2020 của bị đơn ông Võ Đằng L (đồng thời là đại diện hợp pháp của: Trần Thị Thanh T3, Võ Thị Bích N, Võ Thị Ái T4, Võ Thị Anh T5 (Võ Thị Ái T5)) trình bày:

Ngày 14/6/2000, vợ chồng ông nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Nguyễn R (chết) và bà Trần Thị B, trong giấy chuyển nhượng không ghi diện tích đất, nhưng khoảng 4.000 m2. Ngày 23/8/2000 ông tiếp tục nhận chuyển nhượng từ ông Hồ C, bà Hồ Thị C1 ước chừng 2.300 m2, nhưng giấy mua đất thì đứng tên bác của ông tên là Trần C2.

Năm 2014, ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 85, diện tích 4.038 m2. Khi làm giấy chứng nhận không đo đạc thực tế mà chỉ áng chừng, thực tế ông sử dụng diện tích phải là 6.000 m2. Ngày 29/11/2012, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải ra Quyết định số 2121/QĐ-UBND thu hồi 108 m2. Như vậy, diện tích đất của ông theo giấy chứng nhận chỉ còn khoảng 3.930 m2, nhưng thực tế đất của ông phải gần 6.000 m2.

Năm 2008, vợ chồng bà P nhận chuyển nhượng thửa đất số 95 của ông Võ T6, nhưng không đo đạc thực tế. Bà P thuê bà Mai Thị Thu C3 (Mai Thị Kim C3) san lấp để làm ruộng muối. Bà P đã chấp nhận ranh giới đất giữa bà P với ông như sau: Đất bà P ở dưới thấp, đất của ông ở trên cao theo Biên bản mô tả, kiểm tra ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 04/4/2019 của Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ninh Hải. Do nguồn gốc đất của ông Võ T6 là đất đìa, ông T6 múc đất làm đìa hết thửa đến giáp thửa đất số 85 của ông. Giữa hai bên đã có trụ bê tông làm ranh đất, hiện giờ vẫn còn.

Bà P mua đất của ông Võ T6 trên giấy tờ, khi đo đạc lại thấy thiếu đất nên cho rằng ông lấn chiếm. Thực tế ông không có lấn chiếm đất của bà P, nên ông không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà P. Ông L yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 790695 ngày 16/9/2008 do Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải cấp cho hộ bà Lê P, vì không đo đạc thực tế khi cấp giấy chứng nhận.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lương Công T trình bày:

Ông đồng ý với lời trình bày của vợ ông là bà Lê P. Ông có ký tên vào Biên bản mô tả, kiểm tra ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 04/4/2019 của Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ninh Hải. Do vào ngày 04/4/2019 ranh giới giữa hai thửa đất không còn, nên ông mới ký tên để làm cơ sở cho Văn phòng đăng ký vẽ Trích lục xem đất thiếu đủ ra sao. Sau đó, Văn phòng đăng ký xác định đất của ông thiếu khoảng 500 m2 nên vợ chồng ông đề nghị ông L thỏa thuận xác định lại ranh giới theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông L không đồng ý và có tranh chấp đến nay.

Ông T không thừa nhận ranh giới theo Biên bản mô tả, kiểm tra ranh giới, mốc giới thửa đất ngày 04/4/2019 của Văn phòng Đăng ký đất đai chi nhánh huyện Ninh Hải. Ông không đồng ý yêu cầu của ông L đòi hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông.

Tại Công văn số 2716/UBND-NC ngày 25/6/2021 của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải trình bày:

Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải cấp cho hộ ông Võ T6 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 036380 ngày 29/6/2006, thửa đất số 95, tờ bản đồ số 30, xã N, diện tích 5.054 m2. Ngày 19/8/2008, hộ ông Võ T6 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho hộ ông Lương Công T, bà Lê P, được Ủy ban nhân dân xã N chứng thực ngày 19/8/2008. Sau khi cơ quan chuyên môn và người sử dụng đất thực hiện xong các thủ tục, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải đã cấp cho hộ bà Lê P, ông Lương Công T Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 790695 ngày 16/9/2008 theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Khi giải phóng mặt bằng thực hiện dự án đường Vĩnh Hy – Ninh Chữ, Uỷ ban nhân dân huyện đã ban hành Quyết định số 1190/QĐ- UBND ngày 01/10/2014 thu hồi diện tích 426 m2 của hộ bà P, ông T và đã bồi thường hỗ trợ do thu hồi đất xong.

Việc ông Võ Đằng L yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 790695 ngày 16/9/2008 đã cấp cho bà P, ông T là không có cơ sở.

Người làm chứng, ông Hồ C trình bày: Ông và bà Hồ Thị C1 có chuyển nhượng cho ông Võ Đằng L một phần thửa đất số 85, tờ bản đồ số 30 xã N, nhưng diện tích bao nhiêu thì ông không rõ. Trên giấy tờ thì người nhận chuyển nhượng là ông Trần C2, nhưng người trả tiền là ông L. Giáp ranh đất của ông là đất của ông Võ T6 do ông T6 tự khai hoang, sau đó chuyển nhượng lại cho bà P, ông T. Ông có vài lần đến thửa đất đã chuyển nhượng cho ông L thì thấy đất của ông T6 ở dưới thấp, còn đất của ông ở trên cao.

Người làm chứng, ông Võ T6 trình bày: Ngày 29/6/2006, hộ nhà ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 95, diện tích 5.054 m2. Đất này nguồn gốc một phần là do ông khai hoang, một phần khoảng 2.000 m2 ông nhận chuyển nhượng của ông Hồ N1 vào năm 1996-1997, phần đất này tiếp giáp với đất của ông Võ Đằng L hiện nay. Ông có múc đìa làm muối, nhưng không múc hết đất mà chừa lại khoảng 01 mét để làm đường đi giáp đất ông L. Ngày 19/8/2008 ông làm thủ tục chuyển nhượng hết thửa đất số 95 cho ông T, bà P.

Khi sang nhượng, ông có chỉ ranh giới đất giáp đất của ông L bằng vài trụ gỗ, bê tông.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DS-ST ngày 11/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:

Căn cứ khoản 2, khoản 9 Điều 26, các điều: 34, 37, 147, 266 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 32 Luật tố tụng hành chính; Điều 127 Luật Đất đai 2003; Điều 166 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 148 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

Buộc ông Võ Đằng L, bà Trần Thị Thanh T3 và các chị: Võ Thị Bích N, Võ Thị Ái T4, Võ Thị Anh T5 (Võ Thị Ái T5) có nghĩa vụ trả lại phần đất đã lấn chiếm, diện tích 638,1 m2 thuộc một phần thửa số 95, tờ bản đồ số 30 xã N cho bà Lê P, ông Lương Công T và các anh: Lương Đức T1, Lương Trọng T2. (Kèm Trích lục bản đồ địa chính do văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Ninh Thuận ban hành ngày 22/11/2021).

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Đằng L về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mã số AN 790695 đối với thửa đất số 95, tờ bản đồ số 30 xã N, diện tích 5.054 m2 do Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải cấp ngày 16/9/2008 cho hộ ông Lương Công T, bà Lê P.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 23/5/2022, bị đơn ông Võ Đằng L có đơn kháng cáo yêu cầu bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Ông Võ Đằng L kháng cáo yêu cầu công nhận phần diện tích tranh chấp là của ông và hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Lê P, ông Lương Công T. Khi múc đìa, ông Võ T6 chỉ chừa lại bờ đi ngang 01 mét, bà P mua đất của ông T6 nhưng không có đo đạc thực tế. Thời gian bà P cho bà C3 làm muối thì bà C3 san ủi hết đất của bà P để làm muối, còn đất của ông thì ở trên cao và là đá san hô, còn đất của bà P ở bên dưới làm ruộng muối, nên đã có ranh giới cụ thể. Do đất của ông đã có ranh giới cụ thể nên vào năm 2014 ông chỉ kê khai đất đã mua của ông R và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn phần đất ông mua của ông Hồ C, bà Hồ Thị C1 thì ông không kê khai vì đất này nằm trong ranh giới đất của ông sử dụng, nên không cần thiết phải kê khai. Ông là người sử dụng diện tích tranh chấp từ lâu, còn bà P không có sử dụng. Tại Biên bản ngày 04/4/2019, chồng bà P là ông T đã ký tên đồng ý ranh giới đất giữa hai bên.

Bà Lê P không đồng ý kháng cáo của ông L. Phần diện tích tranh chấp cả hai bên đều không có sử dụng, chỉ có một phần ông L làm trại tôm, nên ông L nói ông sử dụng đất từ lâu là không đúng. Biên bản ngày 04/4/2019 chồng bà ký để có cơ sở đo đạc chứ không phải là ký đồng ý ranh giới đất và sau khi đo đạc thì cơ quan đo đạc cho biết ông bà thiếu đất nên bà mới đi kiện đòi lại. Bà chỉ có thiếu sót là khi mua đất của ông T6 thì không đo đạc thực tế.

Ông Lương Công T nhất trí ý kiến bà Lê P.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm và đương sự đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức. Về nội dung, đề nghị bác kháng cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của ông Võ Đằng L đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Phiên tòa triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải có yêu cầu xét xử vắng mặt; các đương sự: Lương Đức T1, Lương Trọng T2, Trần Thị Thanh T3, Võ Thị Bích N, Võ Thị Ái T4, Võ Thị Anh T5 (Võ Thị Ái T5) vắng mặt, nhưng có người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng; hai người làm chứng vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hay trở ngại khách quan. Theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án vắng mặt họ.

[2] Hộ bà Lê P, ông Lương Công T nhận chuyển nhượng đất từ hộ ông Võ T6 và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 790695 ngày 16/9/2008, thửa đất số 95, tờ bản đồ số 30 xã N, diện tích 5.054 m2, năm 2014 bị thu hồi 426 m2 nên thửa đất số 95 còn lại 4.628 m2.

Giáp ranh thửa đất số 95 là đất của hộ ông Võ Đằng L, bà Trần Thị Thanh T3 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 274029 ngày 03/11/2014, thửa đất số 85, diện tích 4.038 m2.

[3] Tại Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Võ Đằng L tự viết (bút lục 66), Biên bản phiên họp xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân năm 2014 (bút lục 68), Danh sách công khai các trường hợp đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại xã N (bút lục 55), đều ghi nội dung:“Diện tích thửa số 85, tờ bản đồ số 30 xã N là 4.038 m2, loại đất NKH, gò sạn, có nguồn gốc đất nông nghiệp khai hoang trước năm 1975 của ông Nguyễn R, nhận chuyển nhượng lại năm 1990, chuyển sang trại tôm năm 1998”;

Trong Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17/4/2014, ông Võ Đằng L chỉ kê khai đăng ký thửa đất số 85, hoàn toàn không đề cập, không kê khai, không đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích mà ông cho rằng đã nhận chuyển nhượng của ông Hồ N1, Hồ C, Hồ Thị C1, theo giấy tay ghi ngày 23/8/2000 (bút lục số 37). Mặt khác, các ông bà: Hồ N1, Hồ C, Hồ Thị C1 không có giấy tờ về quyền sử dụng đất. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận lời trình bày của ông Võ Đằng L cho rằng đất của ông ngoài thửa đất số 85 thì còn diện tích khoảng 2.000 m2 đã nhận chuyển nhượng của các ông bà: Hồ N1, Hồ C, Hồ Thị C1.

Vì vậy, Bản án sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Đằng L yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Lê P, ông Lương Công T là có căn cứ.

[4] Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 03/11/2021 và Trích lục bản đồ địa chính khu đất do văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Ninh Thuận lập ngày 22/11/2021 (bút lục 221), xác định phần diện tích 638,1 m2 qua các mốc: 8, 9, 10, 18, 19, 20 hiện do ông Võ Đằng L sử dụng, thuộc thửa đất số 95 của bà Lê P, ông Lương Công T đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê P là có căn cứ.

[5] Ông Võ Đằng L kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của ông là có căn cứ và hợp pháp, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Võ Đằng L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.

[6] Do không được chấp nhận kháng cáo nên ông Võ Đằng L phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[7] Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Đằng L; Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 07/2022/DS-ST ngày 11/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Lê P.

Buộc ông Võ Đằng L, bà Trần Thị Thanh T3 và các chị: Võ Thị Bích N, Võ Thị Ái T4, Võ Thị Anh T5 (Võ Thị Ái T5) trả lại cho bà Lê P, ông Lương Công T và các anh: Lương Đức T1, Lương Trọng T2 diện tích 638,1 m2 thuộc một phần thửa số 95, tờ bản đồ số 30 xã N, được xác định qua các mốc:

8, 9, 10, 18, 19, 20 tại Trích lục bản đồ địa chính do văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Ninh Thuận ban hành ngày 22/11/2021.

2.2. Không chấp nhận phản tố của ông Võ Đằng L yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 790695 do Ủy ban nhân dân huyện Ninh Hải cấp ngày 16/9/2008 cho hộ ông Lương Công T, bà Lê P, thửa đất số 95, diện tích 5.054 m2, tờ bản đồ số 30 xã N, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

3. Ông Võ Đằng L phải nộp án phí dân sự phúc thẩm 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0000526 ngày 22/6/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận.

4. Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

589
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 720/2022/DS-PT

Số hiệu:720/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 12/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;