Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 698/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 698/2024/DS-PT NGÀY 30/08/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 30 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 356/2024/TLPT-DS ngày 13 tháng 5 năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2023/DS-ST ngày 11/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2241/2024/QĐPT-DS ngày 30 tháng 7 năm 2027 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn:

1.1. Bà Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1969 – Có mặt;

1.2. Chị Đoàn Ngọc N2 H, sinh năm 1994 – Vắng mặt;

1.3. Chị Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D, sinh năm 2003 – Vắng mặt;

Người đại diện hợp pháp của Đoàn Ngọc N2 H và Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D: Bà Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1969 – Có mặt;

Cùng địa chỉ: Ấp Rạch Bùi, thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An (Văn bản ủy quyền ngày 15/9/2022 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Hữu Hùng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh);

Địa chỉ hiện nay: A8/21T9 đường 1A, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh;

2. Bị đơn: Cụ Nguyễn Văn T1, sinh năm 1941 – Có mặt;

Địa chỉ: Khu phố Chiến Thắng, thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An;

Người đại diện hợp pháp của bị đơn Nguyễn Văn T1: Ông Nguyễn Thế N, sinh năm 1983; Cùng địa chỉ nguyên đơn; (Văn bản ủy quyền ngày 15/3/2023 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Vĩnh Hưng) – Có mặt;

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An;

Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng: Ông Trần Văn C, Chủ tịch – Vắng mặt;

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng: Ông Trần Hữu H1, Phó Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Vĩnh Hưng - Có yêu cầu xét xử vắng mặt;

3.2. Cụ Trần Hữu T2, sinh năm 1960 – Vắng mặt;

3.3. Cụ Lê Thị T3, sinh năm 1962 – Vắng mặt;

Cùng địa chỉ: Khu phố Măng Đa, thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An;

Địa chỉ liên hệ: Số 73/36 Trần Phong Sắc, Phường 4, thành phố Tân An, tỉnh Long An;

3.4. Cụ Nguyễn Thị A, sinh năm 1940 – Có đơn xin vắng mặt;

3.5. Bà Võ Thị Kim L, sinh năm 1960 – Vắng mặt;

Cùng trú tại: Ấp Chiến Thắng, thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An;

4. Người kháng cáo: Bị đơn cụ Nguyễn Văn T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14/9/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án của các nguyên đơn: Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D trình bày:

Bà chung sống với ông Đoàn Văn M (chết ngày 10/6/2021), có 02 con là Đoàn Ngọc N2 H và Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D. Bà là con của cụ Nguyễn Thị A, còn cụ Nguyễn Văn T1 là cha dượng của bà.

Nguồn gốc diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) là của cụ Trần Hữu T4 được Nhà nước cấp khoảng năm 1997 nhưng cụ T4 chưa kê khai, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Phần đất này trước đây, cụ T4 cho vợ chồng cụ T1 thuê trồng lúa, đến năm 2002 thì cụ T4 kêu bán đất nhưng cụ T1 không có tiền mua nên ông Đoàn Văn M mua với giá 5,8 lượng vàng 24K, có làm giấy tay ngày 07/8/2002 do vợ của cụ T4 là cụ Lê Thị T5 ký bán 01 ha. Ông M làm thủ tục và ngày 30/12/2002 được Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hai thửa đất số 72 và 73, tổng diện tích là 8.641 m2. Do mẫu giấy chứng nhận ghi là hộ ông M, nhưng thực tế đất là của cá nhân ông M. Hộ gia đình của ông M vào thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cũng chỉ có vợ chồng ông M và chị Như H.

Sau khi mua đất, ông M cho cụ T1 mượn 4.510 m2 đất (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) để sản xuất lúa (chỉ bằng lời nói, không có làm giấy tờ cho mượn). Đến vụ Đông Xuân năm 2015 thì bà T và ông M đòi lại đất nhưng cụ T1 không trả.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc cụ T1 phải trả cho nguyên đơn diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

Đối với hợp đồng mua bán đất giữa ông M với cụ T4, cụ T5 thì không tranh chấp trong vụ án này nên đề nghị không đưa cụ T4, cụ T5 tham gia tố tụng và không yêu cầu giải quyết hậu quả hợp đồng vô hiệu (nếu có).

Đối với hợp đồng mua bán đất giữa cụ T1 với bà Võ Thị Kim L là giả tạo, nhưng nguyên đơn cũng không có yêu cầu giải quyết.

Tại các đơn phản tố ngày 04/3/2019, ngày 13/3/2023, ngày 13/6/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn cụ Nguyễn Văn T1 và người đại diện hợp pháp của cụ T1 trình bày:

Nguồn gốc diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) là của vợ chồng cụ Trần Hữu T4, Lê Thị T5 cho vợ chồng cụ thuê từ trước. Cụ T4 kêu bán phần đất này nhưng cụ không có tiền mua. Thời điểm này vợ chồng bà T, ông M trúng số có tiền nên đã mua đất này và đã đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, vợ chồng bà T, ông M đã bán phần đất này lại cho cụ với giá 100.000.000 đồng, cụ đã thanh toán đủ tiền và tiếp tục canh tác đất cho đến nay. Vì là cha, con nên không lập giấy chuyển nhượng, không lập giấy giao nhận tiền. Vợ chồng bà T chưa làm thủ tục sang tên cho cụ.

Cụ T1 yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng bà T với cụ; Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông M; Công nhận cho cụ được quyền sử dụng và kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất tranh chấp nêu trên.

Đối với phần đất cụ nhận chuyển nhượng của bà Võ Thị Kim L bằng giấy tay không nằm trong phần đất tranh chấp, mà là ở vị trí khác nên không có tranh chấp. Đồng thời cũng không có yêu cầu xem xét giải quyết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng cụ T4, cụ T5 với vợ chồng ông M, bà T.

Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cụ Nguyễn Thị A trình bày:

Cụ thống nhất lời trình bày của cụ Nguyễn Văn T1, yêu cầu công nhận phần diện tích tranh chấp là tài sản chung của cụ với cụ T1, thống nhất để cho cụ T1 kê khai đăng ký, đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Kim trình bày:

Trước đây bà có bán cho cụ T1 2.000 m2, có làm giấy tay, nhưng bà không biết vị trí đất này thuộc thửa số mấy. Do đất đã bán cho cụ T1 xong nên bà không có ý kiến gì.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Trần Hữu T4 và cụ Lê Thị T5 trình bày: Nhà nước cấp cho vợ chồng cụ 3.000 m2 thì cụ cho cụ T1 thuê để trồng lúa. Sau đó cụ T1 mua luôn nhưng thời điểm mua thì không nhớ. Hai cụ không còn liên quan gì nên không có ý kiến và xin vắng mặt suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Tại Văn bản số 956/UBND-TNMT ngày 14/3/2023 của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng trình bày:

Việc đăng ký, kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với Thửa đất số 72 và Thửa đất số 73 là dựa trên bản đồ địa chính được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, không có lập Trích đo độc lập, xác định mốc giới liền kề. Đơn đăng ký quyền sử dụng đất ghi cá nhân ông Đoàn Văn M mà không ghi hộ ông M. Quyết định số 1343/QĐ-UB ngày 31/12/2002 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chung cho 23 hộ gia đình, cá nhân, trong đó có hộ ông M.

Hiện tại chưa có thông tin đăng ký giao dịch gì đối với Thửa đất số 72 và Thửa đất số 73.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2023/DS-ST ngày 11/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã quyết định:

Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1, khoản 4 Điều 34, các điều: 37, 226, 227, 228, 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Các điều: 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 167, khoản 1 Điều 170, Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Các điều: 12, 14, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D về việc tranh chấp quyền sử dụng đất với bị đơn Nguyễn Văn T1 đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

1.1. Buộc cụ Nguyễn Văn T1 phải trả cho bà Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D phần đất có diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An (theo Mảnh Trích đo địa chính số 17-2018 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Vĩnh Hưng đo ngày 06/7/2018 và duyệt ngày 09/7/2018 thể hiện tại Khu A diện tích 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73; Khu B diện tích 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và Mảnh Trích đo địa chính số 40-2019 (phân khu) do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Vĩnh Hưng đo và duyệt ngày 05/8/2019 thể hiện tại Khu A diện tích 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73; Khu A1 diện tích 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72).

Bà Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D được liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký và làm thủ tục cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An nêu trên theo kết quả giải quyết của bản án.

Cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết, điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.

Các đương sự không được ngăn cản các bên thực hiện quyền của người được xác lập quyền sử dụng đất theo bản án, quyết định của Tòa án. Trường hợp các bên vi phạm việc sử dụng đất đã được xác định theo bản án, quyết định của Tòa án thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án ra quyết định cưỡng chế thi hành án.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn cụ Nguyễn Văn T1 về việc tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với bà Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D. Cụ thể về việc:

2.1. Yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Văn T1 và bà Huỳnh Ngọc T, ông Đoàn Văn M đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

2.2. Yêu cầu được tiếp tục quản lý, sử dụng và kê khai đăng ký cấp giấy đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

2.3. Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng cấp cho ông Đoàn Văn M đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 (gồm 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73) tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

(Vị trí, diện tích, loại đất, tờ bản đồ, tài sản nêu trên tại Mảnh Trích đo địa chính số 17-2018 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Vĩnh Hưng đo ngày 06/7/2018 và duyệt ngày 09/7/2018 thể hiện tại Khu A diện tích 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73; Khu B diện tích 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 và Mảnh Trích đo địa chính số 40-2019 (phân khu) do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện Vĩnh Hưng đo và duyệt ngày 05/8/2019 thể hiện tại Khu A diện tích 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73; Khu A1 diện tích 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 - kèm theo bản án).

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí xem xét, đo đạc, thẩm định tại chỗ; về án phí dân sự dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án; về trách nhiệm do chậm thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/7/2023, bị đơn cụ Nguyễn Văn T1 có đơn kháng cáo yêu cầu chấp nhận phản tố của cụ và bác khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Cụ Nguyễn Văn T1 kháng cáo yêu cầu chấp nhận phản tố của cụ và bác khởi kiện của nguyên đơn vì cụ đã mướn đất của cụ T4, cụ T4 bán đất nhưng cụ không có tiền nên ông M đã mua, rồi sau đó bán lại cho cụ, cụ đã khai phá thêm phần bàu trũng và mua của bà Võ Thị Kim L 2.000 m2. Nhà Nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông M tại vị trí đất mà cụ khai phá bàu trũng và mua của bà L, nên cụ không đồng ý khởi kiện của bà T và yêu cầu công nhận phần đất này cho cụ.

Ông Nguyễn Thế N trình bày phần đất tranh chấp là của cụ T1 khai phá bàu trũng và mua của bà Loan. Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông không đúng vị trí đất ông M mua của cụ T4, mà cấp tại vị trí đất mà cụ khai phá bàu trũng và mua của bà L.

Bà Huỳnh Ngọc T không đồng ý kháng cáo của cụ T1. Phần đất này chồng của bà là ông M đã mua của cụ T4 nhưng để cho cụ T1 canh tác lúa. Vợ chồng bà không có bán đất cho cụ T1 nên yêu cầu cụ T1 phải trả đất này lại cho bà và các con của bà.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đơn kháng cáo hợp lệ về hình thức; Về nội dung đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của cụ Nguyễn Văn T1 đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Phiên tòa phúc thẩm được triệu tập hợp lệ, những đương sự vắng mặt đều là những người không có kháng cáo và việc vắng mặt của họ không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, nên theo quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án vắng mặt họ.

[2] Tòa án cấp sơ thẩm xác định về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết vụ án là đúng quy định tại Điều 26, Điều 34 và Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

[3] Theo Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 05/6/2019, Mảnh trích địa chính số 40 – 2019 ngày 05/8/2019 và Mảnh trích địa chính số 17 – 2018 ngày 09/7/2018 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện Vĩnh Hưng thì nguyên đơn và bị đơn tranh chấp tổng diện tích 4.510 m2; gồm diện tích 3.167 m2 thuộc một phần Thửa đất số 73 (ký hiệu Khu A) và diện tích 1.343 m2 thuộc một phần Thửa đất số 72 (ký hiệu Khu A1) đều thuộc Tờ bản đồ số 3, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An do ông Đoàn Văn M đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 494907 ngày 31/12/2002. Hiện tại do cụ Nguyễn Văn T1 sử dụng trồng lúa.

Bà Võ Thị Kim L không xác định được vị trí bà đã chuyển nhượng cho cụ T1; đồng thời tại Biên bản hòa giải ngày 24/3/2015 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Thuận thì cụ T1 xác định năm 2002 cụ thuê đất của ông M canh tác cho đến nay, cụ đồng ý trả lại phần đất mà ông M đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện tại cụ có khai phá lấn bàu điên điển và nhận chuyển nhượng của bà L 02 công đất, tổng cộng khoảng 04 công nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận, cụ yêu cầu được công nhận phần đất 04 công chưa được cấp giấy chứng nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, cụ T1 và ông N lại cho rằng phần diện tích tranh chấp là tại vị trí cụ T1 đã khai phá bàu điên điển và nhận chuyển nhượng của bà L là không có cơ sở và mâu thuẫn với lời trình bày của chính mình tại Biên bản hòa giải ngày 24/3/2015 như đã nêu trên, nên không có căn cứ để chấp nhận.

[4] Các bên đương sự đều thừa nhận nguồn gốc đất do Nhà nước cấp cho cụ Trần Hữu T4 khoảng năm 1997, cụ T4 cho cụ T1 thuê đất để trồng lúa, đến năm 2002 cụ T4 chuyển nhượng quyền sử dụng phần diện tích đang cho cụ T1 thuê, nhưng cụ T1 không có tiền nên vợ chồng ông Đoàn Văn M, bà Huỳnh Ngọc T nhận chuyển nhượng và thanh toán cho vợ chồng cụ T4 5,8 lượng vàng 24K. Sau khi nhận chuyển nhượng, ông M kê khai và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 494907 ngày 31/12/2002 Thửa đất số 72, diện tích 2.393 m2 và Thửa đất số 73, diện tích 6.248 m2 đều là đất trồng lúa, nhưng ông M vẫn để cho cụ T1 sử dụng đất để trồng lúa.

Nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc và các con là Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D khởi kiện yêu cầu cụ T1 trả lại cho nguyên đơn diện tích 4.510 m2 theo các Mảnh trích địa chính nêu trên.

Bị đơn cụ Nguyễn Văn T1 trình bày sau khi ông M nhận chuyển nhượng đất của cụ T4 vài năm thì vợ chồng ông M, bà T đã chuyển nhượng lại cho cụ T1 phần đất diện tích 4.510 m2 với giá 100.000.000 đồng và cụ đã thanh toán đủ cho vợ chồng ông M, bà T. Vì là cha con với nhau (cụ T1 là cha dượng của bà T) nên việc vợ chồng bà T chuyển nhượng đất cho cụ không có làm hợp đồng và việc cụ thanh toán tiền nhận chuyển nhượng đất cho vợ chồng bà T cũng không có làm giấy tờ, nên cụ T1 không đồng ý khởi kiện của nguyên đơn.

[5] Xét cụ T1 thừa nhận nguồn gốc diện tích 4.510 m2 tranh chấp là của vợ chồng ông M, bà T nhận chuyển nhượng đất của ông T4; ông M đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất đang tranh chấp. Cụ T1 cho rằng vợ chồng ông M, bà T đã chuyển nhượng cho cụ diện tích 4.510 m2 và cụ đã thanh toán tiền xong, nhưng không được bà T thừa nhận, cụ T1 không có chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của cụ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.

[6] Cụ T1 không xuất trình được chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của cụ là có căn cứ và hợp pháp, nên không có căn cứ để chấp nhận, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.

[7] Do không được chấp nhận kháng cáo nên cụ T1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, nhưng vì cụ là người cao tuổi nên được miễn.

[8] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí xem xét, đo đạc, thẩm định tại chỗ; về án phí dân sự dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án; về trách nhiệm do chậm thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[9] Ngoài ra, trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận được Đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1966; Địa chỉ: Số 14-16 Huỳnh Văn Đảnh, khu phố Rạch Bùi, thị trấn Vĩnh Hưng, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An trình bày vào ngày 07/5/2018, ông đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Đoàn Văn M và đã thanh toán tiền xong, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông vào tham gia tố tụng làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của ông. Xét thấy ông có quyền thương lượng với các thừa kế của ông M hoặc khởi kiện vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các điều 12, 27 và Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

2. Không chấp nhận kháng cáo của cụ Nguyễn Văn T1; giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 32/2023/DS-ST ngày 11/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An;

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D:

2.1.1. Buộc cụ Nguyễn Văn T1 phải trả cho bà Huỳnh Ngọc T, Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D phần đất có diện tích 4.510 m2 đất lúa thuộc một phần Thửa đất số 72 và một phần Thửa đất số 73, Tờ bản đồ số 3 ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An;

2.1.2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn cụ Nguyễn Văn T1 đối với các yêu cầu:

- Về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ Nguyễn Văn T1 với bà Huỳnh Ngọc T, ông Đoàn Văn M đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

- Về việc được tiếp tục quản lý, sử dụng và kê khai đăng ký cấp giấy đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

- Về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Vĩnh Hưng cấp cho ông Đoàn Văn M đối với phần đất có diện tích 4.510 m2 tại ấp Kinh Mới, xã Vĩnh Thuận, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An.

2.1.3. Diện tích, kích thước, hình thể, giáp giới phần diện tích 4.510 m2 được xác định tại khu A và Khu A1 Mảnh trích địa chính số 40 – 2019 ngày 05/8/2019 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai tại huyện Vĩnh Hưng đính kèm theo bản án.

Bà Huỳnh Ngọc , Đoàn Ngọc N2 H, Đoàn Huỳnh Ngọc Thảo D có quyền và nghĩa vụ kê khai đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được công nhận tại tiểu mục 2.1.1 nêu trên, theo quy định của pháp luật.

3. Cụ Nguyễn Văn T1 được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về chi phí xem xét, đo đạc, thẩm định tại chỗ; về án phí dân sự dân sự sơ thẩm; về nghĩa vụ thi hành án; về trách nhiệm do chậm thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 698/2024/DS-PT

Số hiệu:698/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;