TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 02/2023/HNGĐ-PT NGÀY 08/02/2023 VỀ TRANH CHẤP NỘI DUNG THOẢ THUẬN PHÂN CHIA TÀI SẢN CHUNG TRONG THỜI KỲ HÔN NHÂN
Ngày 08 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh P xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 15/2022/TLPT-HNGĐ ngày 03 tháng 11 năm 2022 về việc “Tranh chấp nội dung thoả thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân”.
Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 14/2022/HNGĐ-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh P bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 20/2022/QĐXXPT- HNGĐ ngày 19 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Vương Thị NH, sinh năm: 1978; nơi cư trú: Thôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện S, tỉnh P; có mặt;
2/ Bị đơn: Lê Quang S, sinh năm: 1974; nơi cư trú: Khu phố 2, phường Hắc Dịch, thị xã P, tỉnh B; có đơn xin vắng mặt.
3/ Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
-Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển V; địa chỉ: 02 Láng Hạ, quận B, thành phố H;
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Mạnh H – Trưởng phòng kinh doanh chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện S, tỉnh P; vắng mặt.
-Ngân hàng thương mại cổ phần L; địa chỉ: 40-42-44 Phạm Hồng Thái, thành phố R, tỉnh K;
Người đại diện theo ủy quyền lại: Ông Đào Đức Kh - Giám đốc phòng giao dịch S, tỉnh P; vắng mặt.
Ngân hàng C; địa chỉ: 169 L, phường H, quận H, thành phố H; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh T – Phó giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện S, tỉnh P; vắng mặt.
4/ Người kháng cáo: Bị đơn Lê Quang S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Quá trình tố tụng nguyên đơn Vương Thị NH trình bày: Ngày 27/10/2020 chị NH và anh Lê Quang S thuận NH ly hôn, theo Quyết định công nhận thuận NH ly hôn số 116/2020/QĐST - HNGĐ ngày 27/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh P. Theo Quyết định, về tài sản chung và nợ chung chị NH và anh S tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bởi trước đó, ngày 19/10/2020 chị NH và anh S đến Ủy ban nhân dân xã Ea Chà Rang, huyện S lập biên bản đề nghị Uỷ ban nhân dân xã xác nhận thỏa thuận phân chia tài sản. Theo đó, giữa chị và anh S thỏa thuận: Chị NH được quyền sở hữu, quyền sử dụng căn nhà cấp 4, gắn liền thửa đất số 74, tờ bản đồ số 67, diện tích 252m2, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký hiệu BK 137076, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 00035 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 27/6/2013; chị NH được quyền sở hữu, quyền sử dụng nhà, tài sản khác gắn với đất và có trách nhiệm trả nợ cho các Ngân hàng, gồm: Nợ Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển V - chi nhánh huyện S, tỉnh P 100.000.000đ tiền gốc và 13.972.603đ tiền lãi; Nợ Ngân hàng TMCP L - chi nhánh P 550.000.000đ tiền gốc và lãi phát sinh 38.640.629đ (có thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của chị NH và anh S); Nợ Ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam - Phòng giao dịch huyện Sơn hòa, tỉnh P số tiền gốc 40.000.000đ.
Su khi chị NH thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ cho các Ngân hàng, chị NH lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về và có xây dựng thêm mái lợp tôn để che mái bê tông, làm hàng rào sử dụng tài sản này. Chị NH đã nhiều lần yêu cầu anh S làm thủ tục Sng tên cho chị diện tích đất nói trên và tài sản gắn liền với đất nhưng anh S không thực hiện. Vì vậy, chị NH khởi kiện yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về tài sản giữa chị và anh S vào ngày 19/10/2020; chị NH không yêu cầu Tòa án định giá tài sản tranh chấp.
Bị đơn anh Lê Quang S trình bày: Anh S thừa nhận năm 2020 giữa anh với chị NH thuận NH ly hôn; về phần tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì trước đó vợ chồng chưa có quyết định ly hôn, thì giữa anh với chị NH có thỏa thuận tại UBND xã Ea Chà Rang ngày 19/10/2020, anh S giao cho chị NH được quyền sử dụng, quyền sở hữu nhà, đất nói trên và chị NH có trách nhiệm trả các khoản nợ chung.
Nay anh S biết chị NH muốn bán đất và nhà nói trên để sử dụng vào việc riêng nên anh S thấy ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của 02 con chung, nên anh S không đồng ý Sng tên nhà và diện tích đất nói trên cho chị NH.
Đối với yêu cầu của chị NH, anh S có ý kiến: Anh cùng với chị NH cùng bán diện tích nhà, đất để trừ các khoản nợ chung mà chị NH đã trả, còn lại chia 2, phần của anh S được nhận, anh S dùng vào việc đầu tư cho con.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển V trình bày: Vào ngày 13/9/2019 vợ chồng anh S, chị NH có vay Ngân hàng số tiền 100.000.000đ. Đến ngày 11/11/2020 vợ chồng anh S, chị NH đã thanh toán xong khoản nợ với số tiền gốc: 100.000.000đ và 13.972.603đ tiền lãi.
- Ngân hàng TMCP L trình bày: Ngày 08/10/2020 vợ chồng anh S, chị NH có thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký hiệu BK 137076, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 00035 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 27/6/2013 để vay 550.000.000đ. Ngày 05/10/2021 đã thanh toán xong khoản nợ gốc, 38.640.629đ tiền lãi và trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị NH và đã xóa đăng ký thế chấp ngày 06/10/2021.
- Ngân hàng C trình bày: Ngày 25/3/2019 hộ anh S, chị NH có vay số tiền 40.000.000đ. Ngày 07/4/2021 chị NH đã trả hết khoản nợ gốc và lãi. Đối với việc tranh chấp giữa chị NH và anh S về tài sản chung, Ngân hàng không có ý kiến gì.
Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 14/2022/HNGĐ-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện S đã căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 28, 38 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên xử:
Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Vương Thị NH; công nhận giấy thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân giữa chị Vương Thị NH và anh Lê Quang S lập ngày 19/10/2020 là hợp pháp.
Giao cho chị Vương Thị NH được quyền sử dụng 252m2 đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 137076, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH 00035, do UBND huyện S cấp ngày 27/6/2013, tại thôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện S, tỉnh P.
Chị Vương Thị NH được quyền yêu cầu cơ có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản cho chị Vương Thị NH theo pháp luật.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.
- Ngày 11/10/2022 bị đơn Lê Quang S có đơn kháng cáo, yêu cầu Toà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị đơn vắng mặt;
- Nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về vụ án: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Su khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, kết quả tranh luận của đương sự và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Đối với thoả thuận của anh Lê Quang S và chị Vương Thị NH vào ngày 19/10/2020:
Ngày 27/10/2020 Toà án nhân dân huyện S, tỉnh P ra Quyết định công nhận thuận NH ly hôn giữa nguyên đơn chị Vương Thị NH và bị đơn anh Lê Quang S. Nội dung Quyết định căn cứ vào biên bản ghi nhận sự tự nguyện ly hôn và hoà giải ngày 19/10/2020. Theo nội dung thoả thuận tại Toà thì các đương sự thuận NH ly hôn; thống nhất về giải quyết con chung, các đương sự không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con; không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản. Trong khi đó, cùng ngày 19/10/2020 anh S và chị NH đến UBND xã Ea Chà Rang, huyện S lập biên bản thoả thuận phân chia tài sản, được UBND xã xác nhận.
Như vậy, ngày 19/10/2020 chị NH anh S đã tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận xong về con chung, cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu giải quyết về tài sản chung.
Nội dung thoả thuận về tài sản của các đương sự: chị NH được quyền sử dụng, quyền sở hữu về đất, nhà, gắn liền với thửa đất số 74, tờ bản đồ 67, diện tích 252m2, toạ lạc tại thôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện S, tỉnh P, chị NH có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng.
Thoả thuận về tài sản chung là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà của anh S, chị NH là phù hợp với Điều 459 của Bộ luật dân sự và có điều kiện khi chị NH thực hiện xong nghĩa vụ.
[2] Đối với các khoản nợ chung Ngân hàng của vợ chồng anh S, chị NH, Hội đồng xét xử thấy:
Vợ chồng anh S, chị NH có nợ 03 Ngân hàng, gồm: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển V chi nhánh huyện S; Ngân hàng TMCP L và Ngân hàng C – Phòng giao dịch huyện S.
Đại diện Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển V chi nhánh huyện S trình bày: Ngày 13/9/2019 vợ chồng anh Lê Quang S, chị Vương Thị NH có vay của Ngân hàng số tiền 100.000.000đ. Đến ngày 11/11/2020 vợ chồng anh S, chị NH đã thanh toán xong khoản nợ gốc 100.000.000đ và 13.972.603đ tiền nợ lãi.
Đại diện Ngân hàng TMCP L trình bày: Ngày 08/10/2020 vợ chồng anh Lê Quang S, chị Vương Thị NH có thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký hiệu BK 137076, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH 00035 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 27/6/2013 để vay 550.000.000đ. Ngày 05/10/2021 đã thanh toán xong khoản nợ gốc, 38.640.629đ tiền lãi và trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị NH và đã xóa đăng ký thế chấp ngày 06/10/2021.
Đại diện Ngân hàng C trình bày: Ngày 25/3/2019 hộ anh Lê Quang S, chị Vương Thị NH có vay số tiền 40.000.000đ. Ngày 07/4/2021 chị NH đã trả hết khoản vay này.
Như vậy, chị NH là người trực tiếp thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ chung của vợ chồng, nên chị NH được hưởng quyền và lợi ích theo nội dung anh S, chị NH thoả thuận về tài sản chung lập ngày 19/10/2020.
Từ các căn cứ đã được nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Lê Quang S, công nhận thoả thuận của anh S, chị NH vào ngày 19/10/2020 là hợp pháp.
[3] Các quyết định khác không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xét.
[4] Về án phí phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn Lê Quang S; giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 14/2022/HNGĐ-ST, ngày 31/8/2022 của Toà án nhân dân huyện S, tỉnh P.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 147, 148, 213, 293 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 459 của Bộ luật dân sự; các Điều 28, 38 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 100 Luật đất đai; các Điều 27, 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Tuyên xử:
Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Vương Thị NH; Công nhận giấy thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân giữa chị Vương Thị NH và anh Lê Quang S lập ngày 19/10/2020 là hợp pháp.
Giao cho chị Vương Thị NH được quyền sử dụng 252m2 đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BK 137076, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất CH 00035, do UBND huyện S cấp ngày 27/6/2013, tại thôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện S, tỉnh P.
Chị Vương Thị NH được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất cho chị theo quy định của pháp luật.
Về án phí:
-Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Vương Thị NH tự nguyện chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng số 0002685 ngày 14/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh P.
-Về án phí dân sự phúc thẩm: Buộc bị đơn anh Lê Quang S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0002895, ngày 19/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b; 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 02/2023/HNGĐ-PT về tranh chấp nội dung thoả thuận phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Số hiệu: | 02/2023/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/02/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về