TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 30/2024/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án HNGĐ thụ lý số: 64/2024/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2024 về việc“Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2024/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 64/2024/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Dương Thị H, sinh năm 1999 Địa chỉ: Thôn Đ, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt
-Bị đơn: Anh Trần Cầu H1, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn Đ, xã I, huyện C tỉnh Gia Lai. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 12/12/2023, bản tự khai, tài liệu có tại hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Dương Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị H và anh Trần Cầu H1 tự nguyện tìm hiểu, không ai ép buộc có đăng ký kết hôn ngày 31/8/2017 tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H1 thường xuyên đi nhậu, chơi đánh bài, cá độ. Chị H đã khuyên nhiều lần nhưng anh H1 vẫn không sửa đổi, nói dối chị nhiều lần, bỏ bê gia đình, không lo làm ăn từ đó vợ chồng chị thường xuyên cãi nhau. Chị với anh H1 sống ly thân từ đầu năm 2023 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau. Nay chị xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không hàn gắn được nữa, nên chị làm đơn đề nghị giải quyết cho chị được ly hôn với anh H1.
Về con chung: Chị Dương Thị H và anh Trần Cầu H1 có 01 con chung là Trần Dương Thiện Y, sinh ngày 07/4/2018. Ly hôn chị H có nguyên vọng được nuôi trực tiếp con chung, chị không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị H không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra, chị Dương Thị H không có yêu cầu gì thêm.
Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải, bị đơn anh Trần Cầu H1 trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Dương Thị H tự nguyện tìm hiểu, không ai ép buộc, có đăng ký kết hôn ngày 31/8/2017 tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chung sống hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh làm ăn thua lỗ mà vợ không chia sẻ, chị H không chịu cảnh nợ nần nên đã đưa con về nhà bố mẹ ở từ cuối năm 2023 đến nay, chị H không quay về nhà, anh có đến thăm con thì gia đình chị H cản trở, gây khó khăn cho anh. Anh xét thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng anh đã trầm trọng nên anh cũng đồng ý ly hôn, tuy nhiên anh muốn kéo dài thời gian để vợ chồng thỏa thuận về tài sản, nên tại các buổi hòa giải anh chưa đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh Trần Cầu H1 và chị Dương Thị H và có 01 con chung là Trần Dương Thiện Y, sinh ngày 07/4/2018. Ly hôn anh đồng ý để chị H trực tiếp nuôi con chung, chị H không yêu cầu anh cấp dưỡng thì tự anh có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con sau.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Anh H1 không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra, anh Trần Cầu H1 không có yêu cầu gì thêm.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, do đó Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị Dương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chư Păh theo quy định khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tống tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thấy rằng:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị H và anh Trần Cầu H1 tự nguyện tìm hiểu, không ai ép buộc có đăng ký kết hôn ngày 31/8/2017 tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Nên hôn nhân giữa chị H và anh H1 là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.
Trong quá trình chung sống chị H cho rằng vợ chồng chị chung sống hạnh phúc được khoảng 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H1 thường xuyên đi nhậu, chơi đánh bài, cá độ, chị đã khuyên nhiều lần nhưng anh H1 vẫn không sửa đổi, nói dối chị nhiều lần, bỏ bê gia đình, không lo làm ăn từ đó vợ chồng chị thường xuyên cãi nhau. Chị với anh H1 sống ly thân từ năm 2023 đến nay, vợ chồng không còn quan tâm gì đến nhau. Anh Trần Cầu H1 cũng thừa nhận, trong cuộc sống chung anh với chị H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh làm ăn thua lỗ mà vợ không chia sẻ, chị H không chịu cảnh nợ nần nên đã đưa con về nhà bố mẹ ở từ cuối năm 2023 đến nay.
Xét lời khai của chị H phù hợp với lời khai của anh H1 và các tài liệu, chứng cứ khác mà Toà án thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 là có thật, anh H1 cũng thừa nhận mâu thuẫn giữa vợ chồng anh đã trầm trọng, tuy nhiên anh không đồng ý ly hôn vì muốn để kéo dài thời gian cho vợ chồng anh tự thỏa thuận về tài sản. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã giải thích và tạo điều kiện cho chị H và anh H1 có thời gian để thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì anh H1 có quyền làm đơn yêu cầu giải quyết trong cùng vụ án, nếu không yêu cầu thì có quyền khởi kiện bằng vụ án khác.Vì vậy, đây không phải là lý do để anh H1 không đồng ý ly hôn.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Dương Thị H và anh Trần Cầu H1 đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.
- Về con chung: Chị Dương Thị H và anh Trần Cầu H1 có 01 con chung là Trần Dương Thiện Y, sinh ngày 07/4/2018. Quá trình giải quyết vụ án chị H và anh H1 thỏa thuận giao con chung cho chị H nuôi trực tiếp. Anh H1 không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị H. Do đó Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận này.
- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung khác: Chị Dương Thị H và anh Trần Cầu H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.
[3] Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì chị Dương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên, Căn cứ:
QUYẾT ĐỊNH
- Các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 246, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị H được ly hôn với anh Trần Cầu H1.
- Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận giữa chị H và anh H1. Giao cháu Trần Dương Thiện Y, sinh ngày 07/4/2018 cho chị Dương Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi con thành niên có khả năng lao động hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Cầu H1 không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị Dương Thị H.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.
- Về án phí: Buộc chị Dương Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ứng án phí trước đây theo biên lai thu án phí, lệ phí Tòa án số: 0008248 ngày 22 tháng 5 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.
Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.
Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 30/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 30/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 13/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về