Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 174/2021/TLST–HNGĐ, ngày 19 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:05/2021/QĐXXST–HNGĐ, ngày 17 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1978. Địa chỉ: ấp L, xã V, huyện H, tỉnh B. Vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Tô Văn Đ, sinh năm 1976. Địa chỉ: ấp L, xã V, huyện H, tỉnh B. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 12 tháng 10 năm 2021 và lời khai trong quá trình chuẩn bị xét xử, bà Nguyễn Thị L là nguyên đơn trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Tô Văn Đ có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian đầu, vợ chồng anh chị chung sống với nhau hạnh phúc nhưng được một thời gian thì phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Nay chị nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Tô Văn Đ.

Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị L xác định trong quá trình chung sống, giữa chị L và anh Đ có 04 người con chung là cháu Tô Văn Nhã, sinh năm 2000; Tô Minh Khánh, sinh năm 2002; Tô Văn Mạnh, sinh ngày 19/5/2006 và Tô Văn Khỏe, sinh ngày 19/5/2006. Hiện tại cháu Nhã và cháu Khánh đã trưởng thành nên chị L không có yêu cầu gì; Đối với cháu Mạnh và cháu Khỏe hiện tại đang sống với chị L nên chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Mạnh, cháu Khỏe và chị không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Tô Văn Đ: Tòa án có tiến hành giao thông báo thụ lý và tiến hành lấy lời khai đối với anh Đ nhưng anh Đ không có mặt ở địa phương nên không thể tiến hành giao thông báo thụ lý và không thể tiến hành lấy lời khai đối với anh Đ được. Do đó, Tòa án tiến hành niêm yết các thủ tục theo quy định pháp luật cho anh Sử. Chính quyền địa phươg xác định: Anh Đ vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp L, xã V, huyện H, tỉnh B và hiện tại không có ở địa phương nhưng lâu lâu anh Đ có về địa phương một lần.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật; Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình;Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên đề nghị xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn; Về nội dung: Sau khi phân tích yêu cầu khởi kiện, những quy định của pháp luật, đề nghị: Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thị L và anh Tô Văn Đ là vợ chồng. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao các cháu Tô Văn Mạnh, sinh ngày 19/5/2006 và Tô Văn Khỏe, sinh ngày 19/5/2006 cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng anh Đ được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Về quan hệ tài sản: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết. Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Nguyễn Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Tô Văn Đ và yêu cầu giải quyết về con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp xin ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Tô Văn Đ có nơi đăng ký thường trú tại ấp L, xã V, huyện H, tỉnh B nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị L. Bị đơn anh Tô Văn Đ vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Tô Văn Đ.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Tô Văn Đ, tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng, có tổ chức đám cưới hỏi theo phong tục nhưng đến nay anh, chị chưa có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu thì giữa chị L và anh Đ chung sống hạnh phúc nhưng sau đó xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại chị L và anh Đ đã ly thân với nhau khoảng 02 năm cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị L yêu cầu xin ly hôn với anh Tô Văn Đ. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này mà chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Do đó, Hội đồng xét xử không công nhận chị Nguyễn Thị L và anh Tô Văn Đ là vợ chồng.

[5] Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống chị L xác định giữa chị và anh Đ có 04 người con chung là cháu Tô Văn Nhã, sinh năm 2000; Tô Minh Khánh, sinh năm 2002; Tô Văn Mạnh, sinh ngày 19/5/2006 và Tô Văn Khỏe, sinh ngày 19/5/2006. Hiện tại cháu Nhã và cháu Khánh đã trưởng thành nên chị L không có yêu cầu gì; Đối với cháu Mạnh và cháu Khỏe hiện tại đang sống với chị L nên chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Mạnh, cháu Khỏe và chị không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Mạnh và cháu Khỏe hiện đang sống ổn định với chị L, các cháu đã có môi trường và cuộc sống ổn định. Đồng thời, cháu Mạnh, cháu Khỏe có nguyện vọng theo sống cùng chị L. Vì vậy, Hội đồng xét xử giao cháu Tô Văn Mạnh, sinh ngày 19/5/2006 và cháu Tô Văn Khỏe, sinh ngày 19/5/2006 cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng anh Đ được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

[6] Về quan hệ tài sản: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

[8] Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 9, 14, 15, 53, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 và Điều 14 Nghị quyết số: 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thị L và anh Tô Văn Đ là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Tô Văn Mạnh, sinh ngày 19/5/2006 và cháu Tô Văn Khỏe, sinh ngày 19/5/2006 cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng anh Đ được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị L đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0005914 ngày 18/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Chị Nguyễn Thị L và anh Tô Văn Đ dược quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành:
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;