Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 18 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 247/2021/TLST - HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp Ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1998; Nơi đăng ký HKTT: xã B, huyện K, tỉnh Hưng Yên; Chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã B, huyện K, tỉnh Hưng Yên. (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Dương Văn Q, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/9/2021 cùng các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị kết hôn cùng anh Dương Văn Q ngày 24/02/2017, khi cưới có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, sau ngày cưới chị về làm dâu chung ở cùng gia đình anh Q ngay, tình cảm vợ chồng lúc đầu hòa thuận, hạnh phúc, đến tháng 2/219 vợ chồng sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau và quan điểm sống không phù hợp, bản thân anh Q có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác nên dẫn đến tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2019 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin được ly hôn với anh Q.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Dương Văn Q có 01 con chung là Dương Hoàng Gia B, sinh ngày 14/11/2018, hiện nay đang ở cùng chị H. Ly hôn chị H xin được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, đất canh tác: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về công sức: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Dương Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Q đều vắng mặt. Tại biên bản lấy lời khai ông Dương Văn H bố của anh Dương Văn Q trình bày: Chị H và anh Q kết hôn cùng nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, Sau ngày cưới chị H về làm dâu ở chung với vợ chồng ông được khoảng 01 năm. Tuy nhiên anh chị Hằng ngày đi làm ăn xa nên ít khi về nhà, về mâu thuẫn giữa 02 anh chị như thế nào thì ông không rõ. Bản thân anh Q hiện nay cũng đi làm xa rất ít khi có mặt tại gia đình. Tòa án có giao giấy triệu tập cho anh Q và ông nhận giấy triệu tập, sau đó anh Q có về nhà và ông có đưa giấy triệu tập cho anh Q nhưng do anh Q không muốn ly hôn nên anh Q không đến Tòa án làm việc theo giấy triệu tập của Tòa án. Vào thời điểm tết nguyên đán anh Q không về nhà và có gọi điện hỏi thăm gia đình thì ông có nói với anh Q là đến tòa án giải quyết nhưng anh Q nói lại là không muốn đến Tòa làm việc vì không muốn ly hôn. Nay chị H có đơn ly hôn anh Q do anh chị quyết định, ông không có ý kiến gì. Ông H đề nghị Tòa án không giao giấy triệu tập cho anh Q nữa vì lý do anh Q không có mặt ở nhà. Anh Q làm việc tự do không cho gia đình biết địa chỉ nên ông không biết anh Q làm gì và ở đâu. Về con chung của anh chị hiện nay đang ở cùng chị H. Ly hôn ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Xác minh tại UBND xã L cho biết: Hiện nay anh Q vẫn có hộ khẩu thường trú tại xã L, thi thoảng anh Q có mặt tại gia đình ở thôn H, xã L, lý do vì sao anh Q không đến Tòa án làm việc theo giấy thông báo của Tòa án thì địa phương không rõ.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và việc chấp Hnh pháp luật của các đương sự đồng thời phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đề nghị áp dụng Điều 51, Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Dương Văn Q.

Về con chung: Giao chị Nguyễn Thị H được tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Dương Hoàng Gia B, sinh ngày 14/11/2018. Chị H không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công nợ và công sức: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng dân sự: Chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết việc xin ly hôn của chị và anh Dương Văn Q theo quy định tại Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, anh Q có hộ khẩu thường trú tại xã L, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Về sự vắng mặt của anh Dương Văn Q đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh Q không đến Tòa án để làm việc tham gia phiên hòa giải và công khai chứng cứ, tại phiên tòa anh Q vắng mặt không có lý do, vì vậy căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến Hành xét xử vắng mặt đối với anh Q là đúng trình tự pháp luật.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Dương Văn Q và có đăng ký kết hôn ngày 24/02/2017 tại UBND xã L, trên cơ sở tự nguyện, trước khi cưới có tìm hiểu là cuộc hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nên đã có 01 con chung, quá trình chung sống anh chị có sảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống nên thường hay sảy ra va chạm, vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2019 cho đến nay. Về phía anh Dương Văn Q thường xuyên đi làm vắng, ít khi có mặt ở nhà, Tòa án có đến gia đình làm việc lấy lời khai của anh Q nhưng anh Q vắng mặt, bố anh Q là ông Dương Văn H cho biết gia đình đã giao giấy triệu tập và các thông báo của Tòa án cho anh Q nhận nhưng do anh Q đi làm ăn xa nhà và anh Q không muốn ly hôn nên anh Q không đến Tòa án làm việc. Xác minh tại UBND xã L cho biết hiện nay anh Q có hộ khẩu thường trú tại xã L, thi thoảng anh Q có mặt tại gia đình ở thôn H, xã L, anh chị đã sống ly thân nhau khoảng 02 năm nay. Điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh Q là phù hợp.

[2]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Dương Văn Q có một người con chung là Dương Hoàng Gia B, sinh ngày 14/11/2018, hiện nay đang ở cùng chị H. Do cháu Bảo còn nhỏ nên cần đến sự chăm sóc của mẹ, mặt khác chị H hiện nay đang làm công nhân cho công ty TNHH Công nghệ TECOMEN nên chị H có đủ điều kiện nuôi con, do vậy cần giao cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Hoàng Gia B là phù hợp với quy định của pháp luật. Chị H tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức và đất canh tác: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Dương Văn Q.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục cháu Dương Hoàng Gia Bảo, sinh ngày 14/11/2018 (hiện nay cháu Bảo đang ở cùng chị H). Chị H không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức và đất canh tác: Chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2017/0005266 ngày 04/10/2021 của Chi cục thi Hnh án dân sự huyện Vĩnh Tường, chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;