TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 28/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 39/2022/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022, về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2022/QĐXX-ST ngày 11 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Phan Văn N, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Ấp x, xã TP2, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp.
2. Bị đơn: Chị Đặng Thị M1, sinh năm 1973; Nơi cư trú: Ấp x, xã TP2, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp.
(Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 23 tháng 3 năm 2022 và biên bản lấy lời khai ngày 15 tháng 4 năm 2022, anh Phan Văn N trình bày: Anh và chị Đặng Thị M1 cưới nhau năm 2002, có đăng ký kết hôn, hôn nhân có tìm hiểu trước. Thời gian đầu cuộc sống của vợ chồng hạnh phúc có 01 con chung nhưng đến cuối năm 2019 phát sinh mâu thuẫn trong gia đình, thường xuyên cải nhau nguyên nhân do bất đồng quan điểm, chị M1 ăn chơi cờ bạc và anh khuyên không được, từ đó anh và chị M1 không còn sống chung cho tới nay. Về con chung là cháu Phan Thanh M2, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2004, nay ly hôn anh yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu chị M1 cấp dưỡng. Về chia tài sản chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với chị Đặng Thị M1, Toà án đã triệu tập để hòa giải và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự nhưng chị từ chối không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải và xét xử.
Tại bản khai ngày 15 tháng 4 năm 2022, cháu Phan Thanh M2 trình bày: Ba mẹ ly hôn nguyện vọng ở với ba.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn anh Phan Văn N được ly hôn với chị Đặng Thị M1; về con chung: Giao cháu Phan Thanh M2, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2004 cho anh Phan Văn N nuôi dưỡng, chị Đặng Thị M1 không phải cấp dưỡng nuôi con do anh N chưa có yêu cầu; Về tài sản chung và nợ chung: Về phía bị đơn chưa có ý kiến, nên không đề cập giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Đây là vụ kiện tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[2] Nguyên đơn anh Phan Văn N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn chị Đặng Thị M1 đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Phan Văn N và chị Đặng Thị M1 là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn và hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình. Xét yêu cầu ly hôn của anh Phan Văn N và chị Đặng Thị M1, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo trình bày của anh N thì cuộc sống của anh và chị M1 không còn hạnh phúc từ cuối năm 2019, mâu thuẫn trong gia đình kéo dài, vợ chồng thường xuyên cải nhau, nên vợ chồng đã không còn sống chung. Từ đó, có thể nhận thấy rằng mối quan hệ vợ chồng của anh N đối với chị M1 hoàn toàn không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét thấy yêu cầu ly hôn của anh N là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, nên chấp nhận cho anh N ly hôn với chị M1.
[4] Về việc nuôi con: Cháu Phan Thanh M2, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2004 có nguyện vọng được sống với anh N và anh N cũng có yêu cầu, để ổn định việc sinh hoạt của cháu, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh N được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Thanh M2, chị M1 không phải cấp dưỡng nuôi con do anh N chưa có yêu cầu.
[5] Về chia tài sản chung: Anh Phan Văn N cho rằng không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn chị Đặng Thị M1 không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.
[6] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHI4 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc đương sự phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 53, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phan Văn N, cho ly hôn giữa anh Phan Văn N và chị Đặng Thị M1.
2. Về việc nuôi con chung:
2.1. Anh Phan Văn N được chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con chung Phan Thanh M2, sinh ngày 03 tháng 8 năm 2004.
2.2. Chị Đặng Thị M1 không phải cấp dưỡng nuôi con.
2.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về án phí sơ thẩm: Anh Phan Văn N chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003856 ngày 28 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con số 28/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 28/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/06/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về