Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH THUẬN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐST NGÀY 10/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 48A/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2021 về ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 08/02/2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Trần Thị S, sinh năm 1993; địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng Y sinh năm 1993; địa chỉ: ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/10/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trần Thị S trình bày:

Về hôn nhân: Chị S và anh Y qua thời gian tìm hiểu sau đó được sự thống nhất của gia đình 2 bên tổ chức lễ cưới vào năm 2017 và có đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân xã B. Trong quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống mặt dù đã cố gắng hàn gắn để hạnh phúc gia đình không bị đỗ vỡ nhưng vẫn không có kết quả, cuộc sống hôn nhân vẫn tiếp tục xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 4/2020. Nay chị S xác định vợ chồng không còn tình cảm nên yêu cầu được ly hôn với anh Y.

Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có con chung 01 người con chung là Nguyễn Hữu L, sinh ngày 31/12/2018, giới tính: Nam hiện nay con đang sống chung với chị S. Nay ly hôn chị S yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hữu L không yêu cầu anh Y phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị S xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Nguyễn Hoàng Y để anh trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị S cũng như tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh Y không nộp bản tự khai cho Tòa án, cố tình vắng mặt không rõ lý do trong quá trình tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu: Quá trình thụ lý vụ án, chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, đúng tư cách tham gia tố tụng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tiến hành thu thập chứng cứ đúng trình tự, thủ tục. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định; tuy nhiên bị đơn vi phạm những quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt tại phiên tòa không lý do mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Y là đúng quy định. Về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị S được ly hôn với anh Y. Về con chung, đề nghị giao cháu Nguyễn Hữu L, sinh ngày sinh ngày 31/12/2018, giới tính: Nam cho chị S là người trực tiếp nuôi dưỡng, anh Y không phải cấp dưỡng nuôi con do chị S không yêu cầu. Về tài sản chung không có; Về nợ chung không có, nên đề nghị không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn anh Nguyễn Hoàng Y được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2, xét thấy sự vắng mặt của anh Y không làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Hoàng Y.

Nguyên đơn chị S yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Y và yêu cầu giải quyết con chung. Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”; chị S yêu cầu ly hôn với anh Y, anh Y có nơi cư trú tại ấp A, xã B, huyện C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nên Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Thuận thụ lý giải quyết là phù hợp.

Do Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ nên đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm là phù hợp với quy định tại Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh Y xác lập quan hệ hôn nhân năm 2017, anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện C, tỉnh Kiên Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn, mặc dù anh chị đã có thời gian để cùng nhau hàn gắn nhưng vẫn không thành và hơn nữa anh chị đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2020. Nay chị S xác định không còn tình cảm với anh Y, chị cương quyết yêu cầu ly hôn với anh Y nhưng anh Y không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình cố tình vắng mặt trong quá trình tòa án giải quyết vụ án. Xét thấy chị S không còn tình cảm với anh Y và anh Y không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình và hiện anh chị đã sống ly thân trong thời gian dài. Từ đó, thấy rằng mâu thuẫn anh chị đã trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài nên căn cứ Điều 56 (ly hôn theo yêu cầu một bên) của Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trần Thị S được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Y là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống anh chị có 01 người con chung là Nguyễn Hữu L, sinh ngày 31/12/2018, giới tính: Nam, hiện nay con đang sống chung với chị S. Nay ly hôn chị S yêu cầu tiếp tục nuôi cháu Nguyễn Hữu L không yêu cầu anh Y phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi sống ly thân đến nay cháu L sống chung với chị S cuộc sống của con được đảm bảo; ông D, bà H là cha mẹ anh Y xác định từ khi anh Y và chị S sống ly thân cháu L do chị S trực tiếp nuôi dưỡng cuộc sống của cháu L vẫn được đảm bảo. Nên việc chị Soàn yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Lộc khi ly hôn là phù hợp nên chấp nhận giao cháu Nguyễn Hữu L, sinh ngày sinh ngày 31/12/2018, giới tính: Nam cho chị S là người trực tiếp nuôi dưỡng, anh Y không phải cấp dưỡng nuôi con do chị S không yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung:

Về tài sản chung và nợ chung: Chị S xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 6, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng chị S chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003638 ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 21, khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1 - Về hôn nhân: TrầnThị S được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng Y

2- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hữu L, sinh ngày 31/12/2018, giới tính: Nam, cho chị Trần Thị S là người trực tiếp nuôi dưỡng, anh Y không phải cấp dưỡng nuôi con do chị S không yêu cầu. (Trừ trường hợp có yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật). Anh Y được quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

3- Về tài sản chung và nợ chung: Chị S xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

4- Án phí ly hôn sơ thẩm: Tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đồng chị S chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003638 ngày 10 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Thuận.

5- Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/3/2022); đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

716
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 15/2022/HNGĐST

Số hiệu:15/2022/HNGĐST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Thuận - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;