Bản án về tranh chấp ly hôn số 72/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

 BẢN ÁN 72/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án kiện thụ lý số: 60/2021/TLST-HNGĐ ngày 03/3/2021 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/7/2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 39/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23/7/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Mai Thị Ng, sinh năm: 1988.

Địa chỉ: Thôn Trung Hà xã Đông Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm: 1984.

Địa chỉ: Thôn Trung Hà, xã Đông Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng . (Chị Ng có mặt, anh H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn chị Mai Thị Ng trình bày: Chị và anh Nguyễn Đức H kết hôn với nhau từ năm 2007 tại Uỷ ban nhân dân xã Đông Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sinh sống tại thôn Trung Hà xã Đông Thanh, huyện Lâm Hà, vợ chồng chị sống hoà thuận, hạnh phúc đến tháng 4 năm 2016 mới phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng chị không hòa thuận, bất đồng quan điểm sống, không hiểu và không chia sẻ cho nhau nên vợ chồng xảy ra xô xát, đánh đập. Dẫn đến vợ chồng sống ly thân cuối năm 2019 cho đến nay. Nay chị Ng xác định tình cảm vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Đức H để chị sớm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh H có hai con chung là Nguyễn Mai Hải Ch, sinh ngày 06/10/2007 và Nguyễn Mai Bảo Ng1, sinh ngày 31/8/2014. Khi ly hôn, chị Ng yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả hai chung, chị không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung: Chị Ng xác định trong thời gian chung sống vợ chồng chị không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị Ng xác định trong thời gian chung sống vợ chồng chị không có nợ chung nên không yêu cầu Toà án xem xét, giải quyết. Ngoài ra chị không còn yêu cầu gì khác.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Đức H, sau khi Toà án thụ lý vụ án ly hôn giữa chị Ng với anh H cho đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án đã tiến hành xác minh tại địa phương thì thấy rằng: Anh H không có mặt tại địa phương và Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định nhưng anh H vẫn vắng mặt. Vì vậy, Toà án không tiến hành lấy lời khai cũng như không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ng, xử cho chị Ng và anh H được ly hôn.

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Mai Hải Ch, sinh ngày 06/10/2007 và Nguyễn Mai Bảo Ng1, sinh ngày 31/8/2014 cho chị Ng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục, chị Ng không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung; Chị Ng xác định không có tài sản chung nên đề nghị hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Chị Ng xác định không có nợ chung nên đề nghị hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về án phí: Chị Ng phải chịu án phí theo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Đức H vắng mặt dù đã được Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh H vắng mặt không có lý do, nên căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn xét xử vắng mặt anh H là hoàn toàn phù hợp.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ng và anh H xây dựng gia đình với nhau vào năm 2007, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đông Thanh, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2016 thì mới phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng chị không hòa thuận, bất đồng quan điểm, không thông cảm và chia sẻ cho nhau dẫn đến vợ chồng xảy ra xô xát nên chị và anh H đã sống ly thân từ cuối năm 2019 cho đến nay. Nay chị Ng xác định tình cảm vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Đức H.

Xét thấy: Giữa chị Ng và anh H phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xảy ra bất hòa dẫn đến anh H hay xúc phạm, đánh đập chị nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Trong thời gian vợ chồng xảy ra mâu thuẩn vợ chồng chị sống ly thân. Sau khi chị và anh H sống ly thân thì anh H bỏ đi khỏi địa phương cho đến nay. Tình cảm giữa chị Ng và anh H không thể cải thiện, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 53 và khoản 1 Điều 56 chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Ng, xử cho chị Ng và anh H được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3]. Về con chung: Chị Mai Thị Ng và anh Nguyễn Đức H có hai người con chung là Nguyễn Mai Hải Ch, sinh ngày 06/10/2007 và Nguyễn Mai Bảo Ng1, sinh ngày 31/8/2014. Khi ly hôn, chị Ng có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Tòa án đã tiến hành xác minh thì thấy rằng: Chị Ng và anh H có 02 con chung, từ ngày chị Ng và anh H sống ly thân cho đến nay, chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Mai Hải Ch, sinh ngày 06/10/2007 và Nguyễn Mai Bảo Ng1, sinh ngày 31/8/2014, trong thời gian thụ lý, giải quyết vụ án cháu Nguyễn Mai Hải Ch có nguyện vọng được ở với chị Ng. Hơn nữa, hiện nay anh H đã bỏ đi khỏi địa phương cho đến nay chưa xác định được anh H hiện nay ở đâu. Do vậy, để đảm bảo điều kiện chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và phát triển ổn định cho trẻ, cần giao hai con chung là Nguyễn Mai Hải Ch, sinh ngày 06/10/2007 và Nguyễn Mai Bảo Ng1, sinh ngày 31/8/2014 cho chị Ng tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con. Chị Ng không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

[4]. Về tài sản chung: Chị Ng xác định quá trình chung sống chị và anh H không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[5]. Về nợ chung: Chị Ng xác định trong thời gian sống chung chị và anh không có nợ chung và không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị Ng phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147; Điều 157, Điều 165; Điều 203; điểm c khoản 1 Điều 217; khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 228 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Mai Thị Ng, xử cho chị Mai Thị Ng và anh Nguyễn Đức H được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Mai Hải Ch, sinh ngày 06/10/2007 và Nguyễn Mai Bảo Ng1, sinh ngày 31/8/2014 cho chị Mai Thị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục theo nguyện vọng của con chung. Anh Nguyễn Đức H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

3. Về án phí: Chị Mai Thị Ng phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ng đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2016/0015120 ngày 03/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, chị Ng đã nộp đủ tiền án phí.

Báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (13/8/2021). Riêng đương sự vắng mặt tại phiên có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 72/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:72/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;