TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Trong ngày 06 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 252/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Bích T, sinh năm: 1989; (có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 33 L, khóm 5, phường 6, thành phố C, tỉnh C.
- Bị đơn: Anh Trần Huy H, sinh năm: 1982; (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp L, xã M, huyện C, tỉnh T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Chị Lê Bích T trình bày:
Chị và Anh Trần Huy H chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố C, tỉnh C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 101 ngày 04/7/2017. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, Anh H nói anh sẽ đi làm xa nhà một thời gian, nhưng từ tháng 02/2020 cho đến nay Anh H không chăm lo cho gia đình và thăm hỏi vợ con. Khi chị điện thoại cho Anh H thì anh không nghe máy và chặn số điện thoại của chị. Do đó chị và Anh H đã ly thân từ tháng 02/2020 cho đến nay, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Vì thế về tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn Anh H;
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 20/4/2018, hiện Cháu H đang sống với mẹ. Khi ly hôn chị yêu cầu nuôi dưỡng con chung, chị yêu cầu anh Hòang cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi Cháu H đủ 18 tuổi và có khả năng lao động.
Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn Anh Trần Huy H trình bày:
Anh và Chị T chung sống vợ chồng với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do anh đi làm công việc mang tính chất thời vụ nên việc gửi tiền chăm lo cho con không được như mong muốn từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn với nhau.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 20/4/2018, hiện Cháu H đang sống với mẹ.
Về tài sản chung và nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng anh, anh sẽ nêu ý kiến về việc Chị T xin ly hôn và về con chung sau. Tuy nhiên bị đơn Anh Trần Huy H dù được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt, không lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn Chị Lê Bích T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn Anh Trần Huy H dù được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt Chị T, Anh H.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét thấy, Chị T yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn và nuôi con với Anh H nên đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do bị đơn Anh H có nơi cư trú tại huyện Cái Bè nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, Chị T và Anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố C, tỉnh C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 101 ngày 04/7/2017 nên là hôn nhân hợp pháp. Chị T cho rằng chị và Anh H chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau. Anh H đi làm xa nhưng khi chị điện thoại thì anh không nghe máy và chặn số điện thoại của chị, từ tháng 02/2020 cho đến nay Anh H không chăm lo cho gia đình, chị và Anh H đã ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Bị đơn Anh H có ý kiến cho rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng là do anh đi làm công việc mang tính chất thời vụ nên việc gửi tiền chăm lo cho con không được như mong muốn từ đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn với nhau.
Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Chị T cương quyết xin ly hôn, không đồng ý đoàn tụ, Anh H đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng anh chị. Tuy nhiên dù được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng, Anh H vẫn vắng mặt, anh không có mặt tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong quá trình giải quyết vụ án, Anh H cũng không đưa ra được phương án cụ thể để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó cho thấy Anh H đã không yêu thương, quan tâm và không có ý định hàn gắn tình cảm cũng như mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị T.
[4] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 20/4/2018, hiện đang sống với Chị T. Khi ly hôn Chị T yêu cầu nuôi dưỡng con chung, Anh H không có ý kiến về con chung. Xét thấy, sau khi ly thân Chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Cháu H khỏe mạnh và ổn định cho đến nay nên việc giao con chung cho Chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định pháp luật và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Trần Lê Gia H đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Xét thấy “cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con” nên việc Chị T yêu cầu Anh H cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi Cháu H đủ 18 tuổi và có khả năng lao động là phù hợp với thu nhập, khả năng thực tế của Anh H và nhu cầu thiết yếu của con chung theo quy định tại Điều 107, Điều 110 và Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Chị T.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và Anh H trình bày không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7] Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm, Anh H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 107, 110 và 116 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, q uản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị Lê Bích T.
Về quan hệ hôn nhân: Cho Chị Lê Bích T được ly hôn với Anh Trần Huy H.
Về con chung: Giao con chung tên Trần Lê Gia H, sinh ngày 20/4/2018 cho Chị Lê Bích T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.
Anh Trần Huy H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
Buộc Anh Trần Huy H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Trần Lê Gia H đủ 18 tuổi và có khả năng lao động. Thực hiện cấp dưỡng nuôi con ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày Chị T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Anh H chậm thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.
2. Về án phí: Chị Lê Bích T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000598 ngày 19/4/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Vậy Chị T đã thi hành xong án phí.
Anh Trần Huy H phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn Chị Lê Bích T, bị đơn Anh Trần Huy H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 76/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 76/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về