TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 04 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 94/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 14/4/2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Bích H, sinh năm 1986; thường trú: Thôn N, xã P, huyện P1, tỉnh Quãng Ngãi; địa chỉ liên hệ: 37/5E khu phố Đ1, phường D, thành phố A, tỉnh Bình Dương; Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Lý H1, sinh năm 1986; thường trú: 2/372 ấp Biển Đông B, xã Đ, thị xã L, tỉnh Bạc Liêu; tạm trú: 60/20 Cây Găng Cây Sao, khu phố Đ1, phường D, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 26/12/2021 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Bích H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Bích H và anh Lý H1 có thời gian tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, việc tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, thị xã L, tỉnh Bạc Liêu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 93, quyển số I/2006, ngày 06/10/2006, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình chấp nhận.
Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống và làm việc tại thị xã D (nay là thành phố A), tỉnh Bình Dương. Thời gian đầu anh, chị chung sống hạnh phúc, cùng nhau xây dựng kinh tế. Tuy nhiên, đến năm 2016 anh, chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung nên thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện anh, chị không còn quan tâm, chia sẻ với nhau và đã sống ly thân từ giữa năm 2021. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh H1.
Về con chung: Chị H và anh H1 có 01 con chung tên Lý Minh Tr, sinh ngày 21/8/2007, hiện cháu Trường đang sống cùng chị H tại 37/5E khu phố Đ1, phường D, thành phố A, tỉnh Bình Dương. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trường và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Tại bản tự khai ngày 01/4/2022, bị đơn anh Lý H1 trình bày:
Thống nhất với lời khai của chị H về thời gian, điều kiện kết hôn và nơi sinh sống của vợ chồng sau khi kết hôn. Quá trình chung sống thời gian đầu anh, chị sống hạnh phúc cùng nhau làm ăn, xây dựng gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên đến năm 2016 anh, chị bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi nhau. Cuộc sống hôn nhân ngày càng ngột ngạt, căng thẳng. Nay anh H1 xác định không còn tình cảm với chị H nên đồng ý ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lý Minh Tr, sinh ngày 21/8/2007, hiện nay cháu Trường đang ở cùng với chị H. Sau khi ly hôn anh H1 đồng ý giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh H1 không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Anh H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Tại biên bản lấy lời khai ngày 01/4/2022, cháu Lý Minh Tr khai: Cháu là con của bố Hới, mẹ Hường, cháu đang học lớp 09. Trường hợp bố, mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng muốn sống với mẹ. Qúa trình chung sống cháu thấy bố mẹ thường xuyên cãi nhau.
- Ngày 01/4/2022, Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn, quá trình chung sống giữa chị Huỳnh Thị Bích H và anh Lý H1 tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An và được cung cấp như sau: Trước khi nộp đơn ly hôn tại Tòa án chị Huỳnh Thị Bích H không có đơn yêu cầu Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An tiến hành hòa giải. Đồng thời, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An cũng không tiếp nhận phản ánh từ cơ sở về mâu thuẫn giữa hai anh, chị. Do đó, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An không biết rõ giữa hai anh, chị có mâu thuẫn như thế nào nên không cung cấp được thông tin cho Tòa án.
- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật, quan điểm giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Nguyên đơn, bị đơn đều có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Căn cứ Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Bích H và anh Lý H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại xã Đ, thị xã L, tỉnh Bạc Liêu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 93, quyển số I/2006, ngày 06/10/2006 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Chị H xác định quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân. Anh H1 cũng thừa nhận vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Xét, mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc; để đạt được mục đích đó vợ chồng cần phải thương yêu, tin tưởng, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt, xây dựng gia đình ấm no hạnh phúc. Chị H và anh H1 đều thừa nhận quan hệ hôn nhân của hai người có nhiều mâu thuẫn, hiện hai người đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, mâu thuẫn giữa anh, chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, chị H yêu cầu được ly hôn với anh H1 là có căn cứ chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Chị H và anh H1 có 01 con chung tên Lý Minh Tr, sinh ngày 21/8/2007. Chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tr, anh H1 cũng thống nhất giao cháu Tr cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.
Xét, cháu Trường đang sinh sống ổn định cùng chị H từ trước cho đến nay. Bản thân cháu Trường có nguyện vọng sinh sống cùng chị H sau khi anh, chị ly hôn. Đồng thời, anh H1 cũng đồng ý giao cháu Trường cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Trường cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.
[2.3] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Nghĩa vụ nuôi con là của cả cha lẫn mẹ. Tuy nhiên, chị H không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[2.4] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.
[3] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về quan điểm giải quyết vụ án.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Bích H phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228 và các Điều 238, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Huỳnh Thị Bích H về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con đối với bị đơn anh Lý H1.
1.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Bích H được ly hôn với anh Lý H1 (Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 93, quyển số I/2006, do Ủy ban nhân dân xã Đ, thị xã L, tỉnh Bạc Liêu cấp ngày 06/10/2006 ).
1.2 Về con chung: Anh Lý H1 giao con chung Lý Minh Tr, sinh ngày 21/8/2007 cho chị Huỳnh Thị Bích H trực tiếp nuôi dưỡng.
Sau ly hôn, chị Huỳnh Thị Bích H và anh Lý H1 có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền được cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.
1.3 Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Huỳnh Thị Bích H không yêu cầu anh Lý H1 cấp dưỡng nuôi con.
1.4 Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản (nợ chung): Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.
2. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Bích H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003498 ngày 23/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 51/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về