Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 60/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 60/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 157/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2021/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 5 năm 2021; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Cẩm T - sinh năm 1982 (vắng mặt), Địa chỉ: Ấp 2, xã MH, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T1 - sinh năm 1979 (vắng mặt), Địa chỉ: Ấp 2, xã MH, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 18/3/2021 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T trình bày như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T1 tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân vào năm 2010, có đăng ký kết hôn vào ngày 27/7/2010 tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2015 thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Chi yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T1.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung gồm Nguyễn Trần Bảo L - sinh ngày 12/8/2010 và Nguyễn Trần Bảo H - sinh ngày 02/5/2018; hiện các con chung đang sống chung với vợ chồng chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung, chị không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn là anh Nguyễn Văn T1 đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ; Quyết định đua vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cùng các giấy triệu tập hợp lệ nhưng đều không có văn bản ý kiến gửi cho Tòa án đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải cũng như phiên tòa xét xử của Tòa án. Vì vậy, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh T1.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã cung cấp tài liệu, chứng cứ gồm Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, Bản sao Giấy khai sinh con chung; Tòa án đã thông báo cho bị đơn biết các tài liệu chứng cứ mà nguyên đơn đã giao nộp nhưng bị đơn vẫn không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định;

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. về thẩm quyền giải quyết vụ án, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Bị đơn anh Nguyễn Văn T1 hiện đang cư trú tại ấp 2, xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn T1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do, nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T có đơn xin xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T và bị đơn anh Nguyễn Văn T1.

[3] Về nội dung vụ án:

[3.1 ] Về quan hệ hôn nhân:

Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 80/2010 ngày 27/7/2010 do Ủy ban nhân dân xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã có đủ cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn T1 là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành giải thích, hòa giải, động viên chị T hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, chị T cho biết do mâu thuẫn vợ chồng đã trở nên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, không thể đoàn tụ được nên chị vẫn giữ yêu cầu ly hôn với anh T1. Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T1, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng, nhưng anh T1 không đến tham dự. Như vậy đã cho thấy anh T1 đã bỏ mặc, không còn quan tâm đến nghĩa vụ của người chồng trong quan hệ hôn nhân với chị T.

Hội đồng xét xử nhận thấy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh T1 có tồn tại mâu thuẫn, nếu chung sống với nhau thì cũng không hạnh phúc và không đạt được mục đích như quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình nên không thể kéo dài. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của chị Trần Thị Cẩm T về việc ly hôn với anh Nguyễn Văn T1 là có cơ sở nên chấp nhận.

[3.2] Về con chung: Theo trình bày của nguyên đơn và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, chị T và anh T1 có 02 con chung gồm Nguyễn Trần Bảo L - sinh ngày 12/8/2010 và Nguyễn Trần Bảo H - sinh ngày 02/5/2018; hiện các con chung đang sống chung với vợ chồng; khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con chung. Đồng thời, theo nguyện vọng của các con chung tại bản tự khai ngày 21/5/2021 thì cháu Bảo L có nguyện vọng được sống với chị T trong trường hợp chị T và anh T1 ly hôn. Bởi lẽ đó, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở để chấp nhận yêu cầu của chị T: Giao các con chung Nguyễn Trần Bảo L và Nguyễn Trần Bảo H cho chị Trần Thị Cẩm T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T1 có quyền đến thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Chị T xác định không yêu cầu anh T1 phải cấp dưỡng nuôi con, do đó Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[3.3] Về tài sản chung: Chị Trần Thị Cẩm T xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.4] Về nợ chung: Chị Trần Thị cẩm T xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 3 5 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Cẩm T.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Cẩm T được ly hôn với anh Nguyễn Văn T1.

2. Về con chung: Giao các con chung gồm Nguyễn Trần Bảo L - sinh ngày 12/8/2010 và Nguyễn Trần Bảo H - sinh ngày 02/5/2018 cho chị Trần Thị Cẩm T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; anh Nguyễn Văn T1 không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.

Anh Nguyễn Văn T1 được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Trần Thị Cẩm T xác định không có yêu cầu nên không giải quyết.

4. Về án phí: Tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng chị Trần Thị Cẩm T phải chịu, khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng mà chị Chi đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012424 ngày 05/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Như vậy chị Trần Thị Cẩm T đã nộp xong án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 60/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;