Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 56/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 56/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 18 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2022/QĐST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 và Thông báo dời ngày mở phiên tòa số 11/2022/TB-DPT ngày 30 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh Q, sinh năm 2000 (Có mặt);

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Anh Ngô Hoàng H, sinh năm 1990 (Vắng mặt);

Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn ly hôn và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Q trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Q và anh H tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới vào năm 2017 và đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân là do anh H chỉ lo ăn chơi, nhậu nhẹt, không quan tâm chăm sóc gia đình. Năm 2020, chị Q đã từng nộp đơn yêu cầu ly hôn tại Tòa án nhưng sau đó chị đã rút đơn với hy vọng anh H sẽ thay đổi, bớt ăn chơi và quan tâm gia đình nhiều hơn.

Chị Q đã nhiều lần cho anh H cơ hội để sửa đổi nhưng không có kết quả. Anh chị không thể hàn gắn tình cảm và đã sống ly thân từ tháng 4 năm 2021. Do đó, chị Q mong muốn được ly hôn với anh H.

- Về con chung: Chị Q và anh H có 01 con chung là cháu Ngô Mai N, sinh ngày 20/02/2019. Hiện tại cháu N đang sống chung với chị Q. Khi ly hôn, chị Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.

Ngoài ra, chị Q không còn yêu cầu gì khác.

Theo văn bản trình bày ý kiến và quá trình tố tụng, bị đơn anh Ngô Hoàng H trình bày:

Anh H thống nhất tình trạng hôn nhân, con chung giữa anh và chị Q đúng như chị Q trình bày. Tuy nhiên, hiện tại anh H vẫn còn thương vợ, thương con, mong muốn được hàn gắn tình cảm với chị Q. Do đó, chị Q yêu cầu ly hôn, anh H không đồng ý. Trường hợp phải ly hôn theo quyết định của Tòa án, anh H đồng ý để cháu N cho chị Q tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung, anh H không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Q giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, anh H vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Q yêu cầu ly hôn với anh Ngô Hoàng H và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung nên đây là “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn anh Ngô Hoàng H có nơi cư trú tại ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng: Bị đơn anh Ngô Hoàng H đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt anh H.

[3] Về hôn nhân: Chị Q và anh H chung sống trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 27 ngày 08/6/2018 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Quá trình chung sống, giữa chị Q và anh H xảy ra mâu thuẫn kéo dài không tự hàn gắn được. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhằm hàn gắn tình cảm giữa hai bên nhưng không thành.

Thấy rằng, anh H thừa nhận mâu thuẫn giữa anh và chị Q xuất phát nguyên nhân do anh H, giữa anh H và chị Q không có sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, nên cần xác định tình trạng mâu thuẫn giữa chị Q và anh H đã trầm trọng, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Q là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Chị Q và anh H có 01 con chung là cháu Ngô Mai N, sinh ngày 20/02/2019. Hiện tại cháu N đang sống chung với chị Q. Khi ly hôn, chị Q yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và được anh H thống nhất. Hội đồng xét xử thấy rằng, để tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo cho sự phát triển bình thường của cháu N nên cần thiết giao cháu cho chị Q được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Q, anh H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Q là nguyên đơn nên phải chịu án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh Q, chị Q được ly hôn với anh Ngô Hoàng H.

2. Về con chung: Giao cháu Ngô Mai N, sinh ngày 20/02/2019 cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh H có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008088 ngày 24/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú Đông, nên chị Q đã nộp xong án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Q được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

5. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 56/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:56/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú Đông - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;