Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 39/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 138/2021/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp về ly hôn và nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐST- HNGĐ ngày 16/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1978; địa chỉ: Xóm A, xã N, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1968; địa chỉ: Xóm M, xã T, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện; bản tự khai và lời trình bày tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị V trình bày như sau:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau vào ngày 14/01/2004 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghi Ân,Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 4/2018 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Hằng thường xuyên rượu chè, cờ bạc do vợ chồng không tin tưởng nhau, cuộc sống bất hoà, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Tình cảm vợ chồng là không còn, chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 18/9/2004 và Nguyễn Thiện N, sinh ngày 15/5/2008, hiện tại hai người con ở với chị tại Xóm Kim Liên, xã Nghi Ân,Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Chị Nguyễn Thị V yêu cầu được nuôi cả hai người con và yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng (Mỗi người con 2.000.000đồng/ tháng) Về chia tài sản và nợ: Chị Nguyễn Thị V không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ý kiến bị đơn anh Nguyễn Văn H: Anh và chị Nguyễn Thị V kết hôn với nhau vào ngày 14/01/2004 có đăng ký kết hôn tại UBND xã Nghi Ân,Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Hằng ốm đau, bệnh tật không làm ra kinh tế cho nên vợ con hắt hủi, coi thường. Nay chị Nguyễn Thị V xin ly hôn thì anh Hằng không đồng ý vì làm ảnh hưởng đến tư tưởng con cái sau này.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 18/9/2004 và Nguyễn Thiện N, sinh ngày 15/5/2008. Nếu vợ chồng ly hôn thì anh Hằng yêu cầu được nuôi cả hai người con và không yêu cầu chị Nguyễn Thị V cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản và nợ: Anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81,Điều 82,Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 18/9/2004 anh Nguyễn Văn H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Giao con chung là Nguyễn Thiện N, sinh ngày 15/5/2008 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

Về chia tài sản và nợ: Đương sự không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn vắng mặt nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai do đó Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]Về nội dung vụ án: Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn H là hợp pháp, được xác lập trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã xã Nghi Ân,Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 18/01/2004. Sau kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không tin tưởng nhau, tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Chị Nguyễn Thị V xin ly hôn thì anh Nguyễn Văn H không đồng ý.

Hội đồng xét xử xét thấy về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn H chỉ tồn tại về mặt hình thức, vợ chồng đã sống ly thân cắt đứt mọi quan hệ tình cảm vợ chồng từ đầu năm 2018 đến nay, chị Nguyễn Thị V không còn tình cảm với anh Nguyễn Văn H,thực chất tình trạng hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị V, xử cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H là đúng với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]Về nuôi con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 18/9/2004 và Nguyễn Thiện N, sinh ngày 15/5/2008. Chị Nguyễn Thị V yêu cầu được nuôi cả hai người con và yêu cầu anh Nguyễn Văn H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đồng (Mỗi người con 2.000.000đồng/ tháng) . Ý kiến anh Nguyễn Văn H trường hợp vợ chồng ly hôn thì anh Hằng yêu cầu được nuôi cả hai người con và không yêu cầu chị Nguyễn Thị V cấp dưỡng nuôi con. Nguyện vọng của hai người con là muốn được ở với mẹ.

Xét thấy chị Nguyễn Thị V, anh Nguyễn Văn H đều có nguyện vọng được nuôi cả hai người con, đây là nguyện vọng chính đáng của cả hai bên. Tuy nhiên để đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con, do đó giao con chung là Nguyễn Hoàng Anh, sinh ngày 18/9/2004 cho anh Nguyễn Văn H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Giao con chung là Nguyễn Thiện Nhân, sinh ngày 15/5/2008 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con là đúng với quy định tại các Điều 81,82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]Về chia tài sản và nợ: Chị Nguyễn Thị V, anh Nguyễn Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Xét thấy ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán; Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa; những người tham gia tố tụng và việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng pháp luật để giải quyết nội dung vụ án là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:

Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Về nuôi con chung: Giao con chung là Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 18/9/2004 cho anh Nguyễn Văn H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Giao con chung là Nguyễn Thiện N, sinh ngày 15/5/2008 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Anh Nguyễn Văn H chị Nguyễn Thị V không ai phải cấp dưỡng nuôi con Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người yêu cầu thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự.

Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Về án phí: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn)đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng(Ba trăm ngàn) theo biên lai số 0009020 ngày 23/12//2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 39/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:39/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;