TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ K, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 31/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 22 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã K xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 60/2021/TLHNGĐ-ST, ngày 17 tháng 5 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXHNGĐ-ST ngày 08 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1997.
- Bị đơn: Anh Ngô Văn T, sinh năm 1993.
Cùng địa chỉ: Nhà không số, ấp C, xã B, thị xã K, tỉnh Long An.
Chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Huỳnh N, các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, thì nội dung vụ án được tóm tắt N sau:
Yêu cầu của nguyên đơn – Chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày: Vào năm 2015, chị và anh T yêu thương nhau và được sự đồng ý của hai bên gia đình nên có tổ chức lễ cưới. Ngày 26 tháng 02 năm 2015, anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, thị xã K. Chị và anh T tự nguyện kết hôn, không bị ai ép buộc. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng mấy năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T thường xuyên uống rượu, không chăm lo cho cuộc sống vợ con. Sự việc này cứ lặp đi lặp lại và kéo dài đến nay. Hiện tại, chị và anh T vẫn còn sống chung nhà Nng không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nữa nên chị yêu cầu ly hôn với anh T, trả lại tự do cho nhau; về con chung: Chị xác định vợ chồng chung sống có một người con chung tên Ngô Tường Â, sinh ngày 19 tháng 01 năm 2015, giới tính nam. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu  đến tròn 18 tuổi. Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi cháu  vì chị đủ điều kiện nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Khi nhận được hồ sơ khởi kiện của chị N, Tòa án nhân dân thị xã K tiến hành thụ lý giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định. Tòa án nhân dân thị xã K đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án; các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đã tống đạt hợp lệ cho anh T Nng anh T không đến tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo các thông báo của Tòa án. Đồng thời, anh T cũng không gửi văn bản nêu ý kiến của anh T cho Tòa án biết về việc chị N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh T. Do đó, các phiên hòa giải không thể tiến hành được theo quy định pháp luật nên Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quan hệ pháp luật tranh chấp là ly hôn, tranh chấp về nuôi con, bị đơn là anh T có địa chỉ tại xã B, thị xã K, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã K theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về sự vắng mặt của chị N, anh T tại phiên tòa: Chị N, anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa, Nng chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị N, anh T là phù hợp theo các Điều 177, 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Bình Tân, thị xã K, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào năm 2015. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Chị N xác định hiện nay vợ chồng vẫn còn sống chung nhà Nng không ai quan tâm đến ai, tự làm tự sống, bỏ mặc cho nhau muốn sống ra sao thì sống. Do đó, tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị N, xử cho chị N được ly hôn với anh T là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Khi ly hôn chị N yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu  đến tròn 18 tuổi và không yêu cầu anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Bởi vì, hiện tại chị N làm công nhân, công việc ổn định, thu nhập trung bình được khoảng 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng/tháng, nhà gần trường học, tiện việc đưa đón con đi học. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N là tiếp tục giao cháu  cho chị N được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến tròn 18 tuổi và không buộc anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu  là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác định và cam kết trong thời kỳ hôn nhân không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí: Áp dụng các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị N phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147, 177, 227, 228, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 3, 6, 24, 26, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Huỳnh N, xử cho chị Nguyễn Thị Huỳnh N được ly hôn với anh Ngô Văn T.
2. Về con chung:
Tiếp tục giao người con chung tên Ngô Tường Â, sinh ngày 19 tháng 01 năm 2015, giới tính nam cho chị Nguyễn Thị Huỳnh N được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tròn 18 tuổi.
Anh Ngô Văn T không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Ngô Tường Ân.
Anh Ngô Văn T được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh Ngô Văn T thực hiện quyền này.
Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con thì theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên thì Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn và mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Về án phí:
Buộc chị Nguyễn Thị Huỳnh N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước, Nng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0009661 ngày 05 tháng 5 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã K. Chị Nguyễn Thị Huỳnh N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
4. Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt đương sự, báo cho biết được quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 31/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 31/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị Xã Kiến Tường - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về