Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 28 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 469/2021/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 13 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 09 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1987 Địa chỉ: Ấp V, xã V, huyện V, thành phố Cần Thơ. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Lý Bá H, sinh năm 1983 Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, quá trình giải quyết nguyên đơn bà Nguyễn Thị K trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông H tự nguyện tìm hiểu rồi tiến đến hôn nhân vào năm 2005, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố L, tỉnh An Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 99, quyển số 01, ngày 15/5/2009. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến khoảng tháng 9/2010 thì phát sinh mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, ông H không làm tròn trách nhiệm của người chồng trong gia đình, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 01/2014 đến nay. Nhận thấy, tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân đã trầm trọng không thể hàn gắn và kéo dài nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lý Đ, sinh ngày 21/3/2006 và Lý Hoài N, sinh ngày 11/10/2008; hiện các con đang sinh sống cùng bà K. Khi ly hôn, bà yêu cầu tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Lý Bá H vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà K. Tại phiên tòa, ông H tiếp tục vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị K khởi kiện tranh chấp ly hôn với ông Lý Bá H. Theo bản sao Sổ hộ khẩu số HSHK 3520MT do Công an thành phố L, tỉnh An Giang cấp ngày 09/01/2004, chủ hộ Lý Bá T được chứng thực ngày 10/01/2022 thể hiện ông H cư trú tại khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bà K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông H được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Bà K và ông H tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố L, tỉnh An Giang ngày 15/5/2009 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình giải quyết, bà K xác định không còn tình cảm với ông H, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên bà yêu cầu ly hôn. Ông H vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà K về tranh chấp ly hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung; không cung cấp, giao nộp chứng cứ. Tại phiên tòa, ông H tiếp tục vắng mặt không lý do, thể hiện ông H không có thiện chí hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục duy trì sẽ không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà K.

[3] Về con chung: Có 02 con chung tên Lý Đ, sinh ngày 21/3/2006 và Lý Hoài N, sinh ngày 11/10/2008. Xét thấy, hiện 02 cháu Đ và N đang sống cùng bà K, hơn nữa các cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống cùng mẹ. Do đó, để ổn định cuộc sống và đảm bảo cho các cháu phát triển tốt về mọi mặt khi bà K và ông H ly hôn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung của bà K.

Về cấp dưỡng nuôi con, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, đây là quyền lợi của con chưa thành niên. Tuy nhiên, bà K là người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bà K phải tạo điều kiện cho ông H được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung. Việc nuôi con không cố định.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà K không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông H không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử chưa giải quyết. Đương sự có tranh chấp, khởi kiện vụ kiện khác theo quy định.

[5] Về án phí: Bà Nguyễn Thị K phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị K được ly hôn ông Lý Bá H.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Lý Đ, sinh ngày 21/3/2006 và Lý Hoài N, sinh ngày 11/10/2008.

Bà K được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục 02 con chung. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà K không yêu cầu.

Bà K phải tạo điều kiện cho ông H được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung. Việc nuôi con không cố định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Bà Nguyễn Thị K phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000678, ngày 16/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Bà K đã nộp đủ tiền án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;