Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 55/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 55/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 152/2021/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp về ly hôn, con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXX-HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 50/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hải Y - sinh năm: 1993. Có mặt Nơi ĐKHKTT: Khối 8, phường C, thành phố Vinh, Nghệ An

Bị đơn: Anh Cao Quốc K - sinh năm: 1992. Vắng mặt Nơi ĐKHKTT: Khối 5, phường T, thành phố Vinh, Nghệ An Hiện đang thi hành án phạt tù tại phân trại số 01, trại giam TL, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn xin ly hôn và những lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Trần Thị Hải Y trình bày: Chị và anh K đến với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 30/8/2013 tại UBND phường C, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Đến khoảng tháng 9/2014 thì chị Y, anh K sống ly thân cho đến nay. Khoảng đầu tháng 9/2014 anh K phạm tội mua bán trái phép chất ma túy và phải đi chấp hành án tại phân trại số 01, trại giam Thanh Lâm, thị trấn Yên Cát, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nay tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Cao Quốc K.

Về con chung: Trong thời gian sống chung chị Y, anh K có một con chung là Cao Duy Khang, sinh ngày 19/9/2013. Hiện nay cháu Khang đang sống cùng với chị Y và ông bà ngoại. Ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Khang bởi vì hiện nay anh K đang chấp hành hình phạt tù không có khả năng trực tiếp chăm sóc con. Chị Y không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: Chị Y không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị đơn Cao Quốc K vắng mặt, tuy nhiên tại bản tự khai anh K trình bày: Về tình cảm: Anh có cùng ý kiến với chị Y về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn. Anh K cho rằng trong thời gian sống chung thì anh chị không có mâu thuẫn vì thời gian sống chung vợ chồng ngắn thì anh đã phải đi chấp hành hình phạt tù. Tuy nhiên chị Y làm đơn xin ly hôn thì anh xét thấy anh đang còn phải chấp hành hình phạt tù nên anh đồng ý ly hôn.

Về con chung: Trong thời gian sống chung chị Y, anh K có một con chung là Cao Duy Khang, sinh ngày 19/9/2013. Hiện nay cháu Khang đang sống cùng với ông bà ngoại và bà nội. Do anh đang phải chấp hành hình phạt tù nên anh đồng ý giao con cho ông bà ngoại, bà nội trực tiếp nuôi dưỡng, sau khi anh chấp hành hình phạt tù xong thì anh sẽ yêu cầu được nuôi con.

Về tài sản chung: Anh K không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật tại điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật tại điều 70, 72 BLTTDS;

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử: về tình cảm: Xử cho chị Y được ly hôn với anh K.

Về con: Giao con chung là Cao Duy Kh, sinh ngày 19/9/2013 cho chị Y được trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K do chị Y không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản: Chị Y, anh K không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: Chị Trần Thị Hải Y phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Đây là quan hệ tranh chấp ly hôn và con chung, bị đơn anh K có hộ khẩu và cư trú tại thành phố Vinh. Nên căn cứ vào quy định tại khoản 1 điều 28, Điều 35 và Điều 39 BLTTDS nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Vinh Anh K đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án, do anh K đang chấp hành hình phạt tù và đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào các Điều 227, 228 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh K.

2. Về nội dung vụ án:

- Về mối quan hệ tình cảm: Căn cứ vào lời khai của chị Y, anh K và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Chị Trần Thị Hải Y và anh Cao Quốc K đăng ký kết hôn trên cơ sở tự tìm hiểu quen biết nhau trước, cả hai tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn vào ngày 30/8/2013 tại UBND phường C, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Quá trình hôn nhân của chị Y và anh K đã tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nên được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Y và anh K sống hòa thuận một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Hiện nay, anh K đang đi chấp hành hình phạt tù nên không thể hàn gắn quan hệ vợ chồng. Mặt khác, anh K, chị Y đều cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm, thương yêu và chăm sóc lẫn nhau đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên thuận tình ly hôn. Vì vậy, cần căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Y và anh K.

Về con chung: Quá trình chung sống chị Y, anh K có một con chung là Cao Duy Khang, sinh ngày 19/9/2013. Ly hôn chị Y có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét nguyện vọng của chị Y là chính đánh, thể hiện trách nhiệm của bố mẹ đối với con, anh K đang chấp hành hình phạt tù nên không thể trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, cần xử giao con chung là Cao Duy Khang, sinh ngày 19/9/2013 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng trưởng thành là phù hợp. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K do chị Y không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Y, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

Về án phí: Chị Trần Thị Hải Y phải chịu án phí HNGĐ sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147; Điều 273, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về lệ phí, án phí.

Xử : 1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Trần Thị Hải Y và anh Cao Quốc K.

2. Về con chung: Giao con chung là Cao Duy Khang, sinh ngày 19/9/2013 cho chị Y được trực tiếp nuôi dưỡng trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh K do chị Y không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Trần Thị Hải Y, anh Cao Quốc K không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thị Hải Y phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Y đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh theo biên lai số 0003377 ngày 19/4/2021.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án Dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, con chung số 55/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;