Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 468/2025/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 468/2025/DS-PT NGÀY 24/07/2025 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 249/2025/TLPT-DS ngày 05 tháng 6 năm 2025 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 33/2025/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4) bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 917/2025/QĐ-PT ngày 24 tháng 6 năm 2025 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn G, sinh năm 1976 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp Láng Biển, xã Mỹ Phước Tây, thị xã C, tỉnh Tiền Giang. (nay là ấp Láng Biển, phường Mỹ Phước Tây, tỉnh Đồng Tháp) Đại diện theo ủy quyền của ông G: Anh Lê Trường X, sinh 1991 (có mặt).

Địa chỉ: Số A T, Phường I, thành phố M, Tiền Giang (Nay là số 147/11/6 Trần Thị T, phường M, tỉnh Đồng Tháp).

(Theo giấy ủy quyền lập ngày 30/5/2025)

- Bị đơn:

1. Ông Đỗ Văn H, sinh năm 1964.

2. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1967.

Cùng địa chỉ: Tổ A, ấp L, xã M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang (nay là ấp L, phường M, tỉnh Đồng Tháp) Đại diện theo ủy quyền của ông H, bà B: Chị Phan Nguyễn Kiều K, sinh năm 2000 (có mặt).

Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang (nay là ấp A, xã T, tỉnh Đồng Tháp) Theo giấy ủy quyền lập ngày 09/12/2024.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn G.

Theo án sơ thẩm;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn G trình bày:

Do quen biết từ trước, ông Nguyễn Văn G có cho vợ chồng ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B vay tiền nhiều lần. Cụ thể như sau:

Ngày 03/4 âm lịch/2023 vay 1.000.000.000 đồng; Ngày 08/4 âm lịch /2023 vay 650.000.000 đồng; Ngày 12/4 âm lịch /2023 vay 250.000.000 đồng; Ngày 15/4 âm lịch /2023 vay 1.500.000.000 đồng; Ngày 18/4 âm lịch /2023 vay 600.000.000 đồng; Ngày 21/4 âm lịch /2023 vay 300.000.000 đồng; Ngày 24/4 âm lịch/2023 vay 1.200.000.000 đồng; Ngày 26/4 âm lịch /2023 vay 400.000.000 đồng; Ngày 28/4 âm lịch/2023 vay 1.100.000.000 đồng; Ngày 30/4 âm lịch /2023 vay 1.000.000.000 đồng; Ngày 20/5 âm lịch /2023 vay 375.000.000 đồng; Ngày 20/9 âm lịch /2023 vay 1.590.000.000 đồng.

Các khoản vay này đều thỏa thuận miệng lãi suất 3%/1 tháng tính từ ngày vay. Mục đích vay tiền là để đáo hạn ngân hàng. Nên ông G và vợ chồng ông H, bà B có thỏa thuận khi nào bên ông H, bà B đáo hạn ngân hàng X1 phải trả lại số tiền vốn và lãi. Tất cả, các lần vay tiền này đều có làm biên nhận, do ông G chuẩn bị mẫu sẵn, bà B viết thông tin vào chỗ chừa trống sau đó bà B và ông H ký tên rồi đưa lại cho ông G. Tổng số tiền vốn vay là 9.965.000.000 đồng. Lúc vay tiền, cũng như làm biên nhận chỉ có mặt ông G và vợ chồng bà B, ông H. Trong thời gian vay, ông B và bà H có trả được cho ông G 04 tháng tiền lãi trên tổng số tiền vay tính từ tháng 4 âm lịch đến tháng 8 âm lịch/2023 là 8.375.000.000 đồng với số tiền lãi 1.005.000.000 đồng (8.375.000.000 đồng x 3% x 4 tháng) việc này không có làm biên nhận. Ông G khẳng định biên nhận nợ số tiền 375.000.000 đồng và biên nhận nợ 1.590.000.000 đồng, lúc bà B viết không có chữ “lãi”. Sở dĩ 02 biên nhận này có chữ lãi là do sau ngày 05/10 âm lịch/2023, bà B và ông H có thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 46, tờ bản đồ 5 tại ấp T, xã T cho ông G để cấn trừ nợ với số tiền 5.475.000.000 đồng. Ông G có lên gặp bà B, bà B có kêu ông G mang biên nhận ra tính lại tiền còn thiếu sau khi trừ tiền bán đất. Ông G có đưa các biên nhận này cho bà B để bà Bình K1, rồi bà B lấy luôn, ông G nói sẽ gọi con ông G lên, bà B sợ con ông G lên làm rùm ben nên khoảng 20 phút sau bà B trả lại các biên nhận nên ông G gọi cho con bảo đừng lên. Sau khi nhận lại biên nhận, ông G xem lại biên nhận thì phát hiện bà B đã gạch bỏ các biên nhận, đối với biên nhận 375.000.000 đồng bà B ghi thêm chữ lãi do ông G không xem lại nên không phát hiện nên không gạch bỏ chữ “lãi” này, đối với biên nhận 1.590.000.000 đồng bà B ghi thêm chữ lãi nên ông G gạch bỏ chữ lãi. Như vậy, sau khi cấn trừ tiền bán đất thì tính từ ngày 05/10 âm lịch/2023 tức ngày 17/11/2023 ông H bà B còn nợ lại ông G số tiền vốn vay là 4.490.000.000 đồng nhưng ông H, bà B không có thiện chí trả nợ.

Nay ông G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B phải cùng liên đới trả cho ông G số tiền nợ gốc là 4.490.000.000 đồng và tiền lãi tính đến ngày xét xử với mức lãi suất 1,66% tính từ ngày 18/11/2023 đến khi vụ án được đưa ra xét xử trên số tiền vốn 4.490.000.000 đồng.

Bị đơn ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B trình bày:

Trước đây, do vợ chồng ông H bà B có cần vốn để nhận chuyển nhượng đất nên có vay tiền nhiều lần của ông Nguyễn Văn G, cụ thể như sau:

- Vào ngày 03/4âm lịch/2023 vay 1.000.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 08/4 âm lịch/2023 vay 650.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 12/4âm lịch/2023 vay 250.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 15/4 âm lịch/2023 vay 1.500.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 18/4 âm lịch/2023 vay 600.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

3 - Vào ngày 21/4 âm lịch/2023 vay 300.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 24/4 âm lịch/2023 vay 1.200.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 26/4 âm lịch/2023 vay 400.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 28/4 âm lịch/2023 vay 1.100.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 4,5%/tháng.

- Vào ngày 30/4 âm lịch/2023 vay 1.000.000.000 đồng, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 6%/tháng.

Khi vay 02 bên không thỏa thuận khi nào trả vốn, nhưng mỗi tháng phải đăng lãi. Tổng cộng số tiền vốn vay mà vợ chồng ông H bà B đã vay của ông G là:

8.000.000.000 đồng. Khi vay ông H, bà B có làm biên nhận như ông G khai. Bà B và ông H xác định có viết biên nhân nợ ông G 375.000.000 đồng và 1.590.000.000 đồng nhưng đây là tiền lãi của số tiền vốn 8.000.000.000 đồng. Sở dĩ có biên nhận ngày 20/5âm lịch/2023 là do ông G đến nhà bà B, ông G yêu cầu trả lãi của số tiền vay 8.000.000.000 đồng nhưng do bà B, ông H không có khả năng đóng lãi nên ông G kêu bà viết cho ông biên nhận nợ lãi 8.000.000.000 đồng đã được ông G chuẩn bị sẵn, số tiền lãi này được tính như sau: 7.000.000.000 đồng x 4,5%/1 tháng = 315.000.000 đồng, 1.000.000.000 đồng x 6%/1 tháng = 60.000.000 đồng, tổng cộng hai khoản lãi là 375.000.000 đồng nên bà B và ông H có viết cho ông G biên nhận thiếu số tiền lãi là 375.000.000 đồng. Chữ “lãi” này đã được bà B viết vào cùng ngày 20/5 âm lịch/2023. Sau khi viết xong bà B và ông H đưa lại biên nhận cho ông G giữ. Đến ngày 20/9 âm lịch/2023 ông G tiếp tục đến nhà bà B yêu cầu bà trả lãi, do không có tiền nên ông G yêu cầu bà viết biên nhận có nợ ông G 04 tháng tiền lãi của số tiền 8.000.000.000 vốn + lãi 375.000.000 = 8.375.000.000 đồng là 1.690.000.000 đồng lãi. Số tiền lãi này là ông G tự tính bà B không có tính, do bị ông G ép nên bà B có ghi biên nhận nợ ông G 1.690.000.000 đồng lãi, sau đó bà B có trả được 100.000.000 đồng nên bà B sửa lại số tiền là 1.590.000.000 đồng, đối với chữ “lãi” bà B vẫn giữ nguyên. Sau đó, bà B có tố cáo sự việc ông G cho vay nặng lãi đến Ủy ban nhân dân xã M, khi Ủy ban xã mời bà B và ông G đến làm việc, ông G xuất trình biên nhận lập ngày 20/9 âm lịch/2023 thì bà B mới phát hiện chữ “lãi” trong biên nhận này đã bị gạch bỏ. Sở dĩ biên nhận ngày 20/9 âm lịch/2023 không có chữ ký của ông H là do ông H không đồng ý với cách tính tiền lãi của ông G nên ông H không ký tên. Các biên nhận, ông G dùng làm căn cứ khởi kiện bà B và ông H có nét gạch đứng (gạch bỏ) là do bà B gạch. Nguyên nhân, sau khi vợ chồng ông H bà B với ông G có thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 46, tờ bản đồ 5, tại ấp T, xã T cho ông G với giá 5.475.000.000 đồng để trừ nợ. Thực hiện thỏa thuận vợ chồng ông H, bà B sau khi giao đất xong cho ông G. Bà B có kêu ông G đến nhà tính sổ sách, bà B có kêu ông G đưa lại các biên nhận, ông G đưa. Bà B nói sẽ viết lại biên nhận nợ cho ông G nhưng ông G không chịu. Ông G kêu bà B đưa lại các biên nhận này. Bà B gạch nét xéo vào các biên nhận nhằm mục đích bỏ các biên nhận này để ghi lại giấy mới, còn chữ lãi bà B xác định không có gạch. Bà B có viết vào biên nhận ngày 20/9 âm lịch/2023 dòng chữ “4 tháng lãi đăng tới 20/9/2023 tròn bộ trông sổ” ý nghĩa của dòng chữ này là do ông G tính lãi bà B thiếu với số tiền 1.690.000.000 đồng trong 04 tháng tính từ tháng 5 âm lịch đến tháng 9 âm lịch và yêu cầu bà B viết biên nhận. Sau khi bà B viết biên nhận bà B có trả cho ông G 100.000.000 đồng nên bà B sửa lại trong biên nhận số 6 thành số 5 và ghi lại một tỷ rưỡi chín chục triệu. Như vậy, bà B mới chỉ trả cho ông G 100.000.000 đồng tiền lãi thôi. Ông G cho rằng, bà B có trả cho ông G 04 tháng tiền lãi trên tổng số tiền vay từ tháng 4 âm lịch đến tháng 8 âm lịch là 8.375.000.000 đồng với số tiền lãi 1.005.000.000 đồng việc này không có làm biên nhận là không đúng. Bà B ông H xác định không có trả ông G số tiền lãi này.

Do đó, bà B ông H chỉ đồng ý cùng liên đới trả cho ông G số tiền vốn vay còn thiếu sau khi trừ tiền chuyển nhượng đất là 2.525.000.000 đồng với mức lãi suất 1,66%/1 tháng tính từ ngày vay 03/4 âm lịch/2023 đến khi vụ án được đưa ra xét xử.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 33/2025/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định áp dụng: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 91, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn G về việc buộc ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn G số tiền vốn vay 2.525.000.000 đồng và lãi 623.732.330 đồng. Tổng cộng là 3.148.732.330 đồng.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn G về việc buộc ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn G số tiền vốn vay 1.965.000.000 đồng.

Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 08/5/2025, nguyên đơn ông Nguyễn Văn G có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết: Sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông, buộc ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B liên đới trả cho ông số tiền nợ gốc 4.490.000.000 đồng và nợ lãi với mức lãi 5 suất 1,66%/tháng, tính từ ngày 18/11/2023 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, Bị đơn không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến: Về tố tụng việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa bản án sơ thẩm không khấu trừ 100.000.000 đồng tiền lãi mà bị đơn đã trả cho nguyên đơn.

Qua nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, lời trình bày của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của nguyên đơn nộp trong hạn luật định nên được Hội đồng xét xử xem xét, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông G, xét thấy:

Ông G khai rằng: Trong thời gian từ ngày 03/4 âm lịch đến ngày 20/9 âm lịch năm 2023 bà B và ông H có vay của ông 15 lần, thể hiện bằng 15 giấy biên nhận, tổng cộng là 9.956.000.000 đồng. Những lần nhận tiền đều có viết giấy biên nhận, bà B và ông H có ký tên, lãi suất thỏa thuận 3%/ tháng. Mục đích vay là đáo hạn ngân hàng. Sau khi vay có trả 04 tháng lãi là 1.005.000.000 đồng thì ngưng. Đến ngày 5/10/2023 âm lịch bà B ông H có thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 46, tờ bản đồ 5 tại ấp T, xã T cho ông G để cấn trừ nợ với số tiền 5.475.000.000 đồng, còn nợ lại 4.490.000.000 đồng chưa trả. Nay ông G yêu cầu bà B ông H trả số tiền 4.490.000.000 đồng vốn và lãi 1,66%/tháng tính từ 18/11/2023 đến nay. Bà B, ông H thừa nhận có vay của ông G số tiền 8.000.000.000 đồng thể hiện bằng 13 giấy biên nhận. Mức lãi suất khi vay là 4,5%/tháng. Do không có khả năng trả nợ nên vợ chồng bà đã thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 46, tờ bản đồ 5 tại ấp T, xã T cho ông G để cấn trừ nợ với số tiền 5.475.000.000 đồng, còn lại 2.525.000.000 đồng vốn và lãi. Bà B xác định 02 giấy biên nhận ngày 20/5/2023 al với số tiền 375.000.000 đồng và giấy biên nhận ngày 20/9/2023 al số tiền 1.590.000.000 đồng là tiền lãi, không phải tiền vốn. Cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông G.

Buộc bà B và ông H trả cho ông G số tiền vốn 2.525.000.000 đồng và lãi là 623.732.230 đồng. Ông G không đồng ý và có yêu cầu kháng cáo.

Đối với giấy biên nhận ngày 20/5/2023al số tiền 375.000.000 đồng, ông G không yêu cầu tòa án giải quyết nên cấp sơ thẩm không đặt ra xem xét.

Xét yêu cầu kháng cáo của ông G, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hai bên đương sự đang tranh chấp số tiền của giấy biên nhận ngày 20/9/2023 al. Ông G cho rằng đây là vốn vay, không phải tiền lãi. Còn bà B ông H cho rằng đây là khoản tiền lãi của vốn vay 8 tỷ trên 13 giấy biên nhận.

Qua xem xét giấy biên nhận ngày 20/9/2023 al, thấy rằng bà B thừa nhận giấy này do bà viết và ký tên. Chữ “lãi” có trong biên nhận do bà B ghi cùng ngày với ngày viết biên nhận rồi đưa cho ông G giữ. Ông G thừa nhận sau ngày 05/10/2023 al ông G mới phát hiện giấy biên nhận ngày 20/9/2023al số tiền 1.590.000.000 đồng có chữ “lãi” nên ông G đã gạch bỏ chữ “lãi” này. Ông G cho rằng sau ngày 05/10/2023 ông có đưa các biên nhận cho bà B thì bà B mới tự ý ghi thêm chữ “lãi” vào giấy biên nhận ngày 20/9/2023 al này. Xét lời trình bày này của ông G là không có căn cứ. Bởi lẽ hai bên thừa nhận chỉ có 01 bản chính giấy biên nhận mà giấy này do ông G giữ. Hơn nữa, phía dưới góc trái của giấy biên nhận ngày 20/9/2023al bà B có ghi: “4 tháng lãi, đăng tới 20/9/2023 tròn bộ trông sổ” nó phù hợp với ngày ghi giấy biên nhận, ông G cũng thừa nhận đã tự ý gạch bỏ chữ “lãi” trong giấy biên nhận không được sự đồng ý của bà B, ông H. Như vậy, có cơ sở xác định ông H bà B còn nợ ông G số tiền vốn 2.525.000.000 đồng và lãi. Cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu của ông G là có cơ sở. Ông G kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tình tiết gì mới để hội đồng xét xử xem xét. Do đó, hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông G, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên cấp sơ thẩm buộc ông H và bà B có nghĩa vụ liên đới trả nợ cho ông G, nhưng chỉ buộc bà B chịu án phí sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật, cấp phúc thẩm sẽ điều chỉnh lại cho phù hợp.

[3] Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát thấy rằng tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất: Hội đồng xét xử tính tiền lãi mà bị đơn có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bao nhiêu thì khấu trừ 100.00.000 đồng mà nguyên đơn đã nhận, số còn lại thì bị đơn sẽ trả tiếp, đây là sự tự nguyện của các đương sự nên Viện kiểm sát đề nghị không khấu trừ số tiền 100.000.000 đồng này vào tiền lãi là chưa phù hợp.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo của ông G không được chấp nhận nên ông phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;

7 Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn G. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 33/2025/DS-ST ngày 26 tháng 4 năm 2025 của Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đồng Tháp).

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 91, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 357, Điều 463, Điều 466, khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 01/2019/NQ- HĐTP11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn G.

Buộc ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn G số tiền vốn vay 2.525.000.000 đồng và lãi 623.732.330 đồng. Tổng cộng là 3.148.732.330 đồng. Thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn G về việc buộc ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Nguyễn Văn G số tiền vốn vay 1.965.000.000 đồng.

3. Về án phí:

3.1 Án phí sơ thẩm: Ông Đỗ Văn H và bà Nguyễn Thị B phải chịu 94.974.700 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn G phải chịu 70.950.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ 57.122.955 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005151 ngày 07/11/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Tiền Giang nên còn phải nộp tiếp số tiền 13.827.045 đồng.

3.2 Án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn G phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Ông G đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0000809 ngày 08/5/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Tiền Giang, xem như ông G đã thi hành xong án phí phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 468/2025/DS-PT

Số hiệu:468/2025/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/07/2025
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;