Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất số 179/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 179/2022/DS-PT NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN, HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG, TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 06 và 19/5/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 270/2021/TLPT-DS ngày 21 tháng 12 năm 2021 về “Tranh chấp Hợp đồng vay Tài sản, hợp đồng mua bán Tài sản, hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, Hợp đồng tặng cho QSDĐ”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 28/2021/DS-ST ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Toà án nhân dân thành phố Hồng Ngự bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 80/2022/QĐ-PT ngày 14 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Xiếu X, sinh năm 1969;

Địa chỉ: khóm A, phường A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Xiếu X là ông Bùi Tấn T, sinh năm 1967. Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là luật sư Phạm Hoàng Đ – Công ty luật hợp doanh anh em Luật sư – thuộc đoàn luật sư tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965;

HKTT: ấp A, xã A thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ cư trú hiện nay: khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị L là ông Lê Hữu Đ, sinh năm 1963. Địa chỉ: Số nhà A, đường A, tổ 8, hẻm 7, ấp Mỹ Lương, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An G.

2. Anh Trình Hữu H, sinh năm 1988;

HKTT: ấp A, xã A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ cư trú hiện nay: khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan:

1. Chị Trình Thị N, sinh năm 1995;

Địa chỉ: khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Chỗ ở hiện nay: Số A, đường A, Phường 2, Quận 5, TPHCM.

Người đại diện theo ủy quyền của chị Trình Thị N là ông Lê Hữu Đ, sinh năm 1963. Địa chỉ: Số nhà A, đường A, tổ 8, hẻm 7, ấp Mỹ Lương, thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An G.

2. Ông Trình Văn Đ, sinh năm 1963;

HKTT: ấp A, xã Tân Hội, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ cư trú hiện nay: khóm A, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, Đồng Tháp.

3. Chị Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1996;

Địa chỉ: khóm A, phường A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

4. Chị Nguyễn Thị Cẩm G, sinh năm 1989;

Địa chỉ: khóm 4, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

5. Ông Trần Vĩnh T, sinh năm 1967;

Địa chỉ: khóm 1, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Vĩnh T là ông Bùi Tấn T, sinh năm 1967. Địa chỉ: ấp A, xã A, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

6. Ông Hà Thanh L, sinh năm 1982.

Địa chỉ: khóm A, phường A, thành phố Hồng Ngự, Đồng Tháp.

7. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1979.

HKTT: khóm A, phường A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Địa chỉ cư trú hiện nay: khóm 1, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo ủy quyền của chị T là anh Nguyễn Phú H, sinh năm 1976.

Đại chỉ: khóm 3, Phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.

- Người kháng cáo là Bà Trần Xíếu X, bà Nguyễn Thị L, chị Trình Thị N, là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ L quan của vụ án.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn trình bày: Do có quen biết với nhau và làm ăn qua lại nhiều năm, gia đình bà Nguyễn Thị L và anh Trình Hữu H có mua vật tư nông nghiệp và vay tiền của bà Trần Xiếu X nhiều lần. Đến ngày 28/5/2020 bà L và anh H có ký giấy xác nhận nợ cho bà X thừa nhận còn nợ lại tổng số tiền là 17.254.471.000đ và 65 chỉ vàng 24kara 9t8. Đến ngày 21/6/2020 hai bên thống nhất là gia đình bà L, anh H trả được cho bà X số tiền là 5.000.000.000đ (việc trả tiền này là cấn trừ các quyền sử dụng đất của bà L đã chuyển nhượng cho bà X), còn thiếu lại 12.254.471.000đ và 65 chỉ vàng 24kara 9T8. Mục đích gia đình bà L vay tiền là để kinh doanh bất động sản và mua vật tư nông nghiệp bán lại lấy tiền lời nuôi sống gia đình. Sau khi ký giấy xác nhận nợ thì bà X nhiều lần nhắc nhở yêu cầu trả tiền, nhưng gia đình bà L và anh H cố tình không thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Nên bà X khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị L, anh Trình Hữu H, ông Trình Văn Đ, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H cùng L đới trả số tiền còn thiếu là 12.254.471.000đ tiền gốc và lãi là 1.678.248.000đ, tổng cộng gốc và lãi là 13.932.719.000đ (Tiền lãi tính theo mức lãi suất 0,83%/tháng, từ ngày 28/6/2020 đến ngày xét xử 15/11/2021 là 16 tháng 15 ngày, thống nhất bỏ 02 ngày lãi suất còn lại) và yêu cầu tiếp tục tính lãi theo quy định pháp luật. Đối với số vàng 65 chỉ vàng 24kara 9T8 thì bà X xin rút một phần yêu cầu khởi kiện này.

Trong số tiền mà gia đình bà L thiếu này thì ông Trần Vĩnh T (anh bà X) có đưa cho bà X 4.000.000.000đ để bà X cho gia đình bà L, anh H vay. Đây là tiền riêng của ông T cho bà X vay để bà X cho gia đình bà L vay lại. Trong vụ án này ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết gì đối với bà X, gia đình bà L và các đương sự khác, Tòa án cứ giải quyết trả cho bà X.

Trong quá trình giải quyết vụ án thì bà X có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa Tài sản của người có nghĩa vụ là chị Trình Thị N đối với diện tích 90,0m2, thuộc thửa đất số 24, tờ bản đồ số 89, tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp và yêu cầu Tòa án giải quyết hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (QSD) giữa bà L với chị N đối với diện tích đất này. Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và thụ lý bổ sung yêu cầu khởi kiện của bà X. Sau đó bà X rút lại đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và Tòa án đã ra quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã áp dụng. Nay bà X xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với việc hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà L với chị N đối với diện tích đất này, yêu cầu Tòa án đình chỉ giải quyết yêu cầu này.

Đối với ý kiến của bị đơn đề nghị bà X xem xét lại giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà hai bên đã thống nhất chuyển nhượng để cấn trừ một phần số nợ là 5.000.000.000đ lại theo giá thị trường hiện nay thì bà X không thống nhất. Vì khi các bên làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất để cấn trừ nợ là hoàn toàn tự nguyện, các bên đã thống nhất giá cả với nhau và đi đến làm hợp đồng sang tên chuyển nhượng. Không có việc bà X hứa là sau này sẽ tính lại theo giá thị trường hiện tại. Các hợp đồng chuyển nhượng này đã thực hiện xong, kết thúc và nay cũng đã chuyển nhượng lại cho người khác rồi. Bà X và ông T thống nhất không tranh chấp gì đối với các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này.

Đối với việc bà L yêu cầu cấn trừ số tiền 500.000.000đ mà chị Nguyễn Thị Cẩm G đưa cho bà X thì bà X không thống nhất. Đây là chuyện giữa bà X và chị G, không L quan tới số nợ của gia đình bà L đối với bà X.

Đối với yêu cầu độc lập của ông Hà Thanh L và bà Nguyễn Thị Thanh T về việc yêu cầu Tòa án công nhận các hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà L, ông Đ với ông Hà Thanh L và bà Nguyễn Thị Thanh T đối với các QSD đất thuộc các thửa số 68, 69, 41, 42, 43, cùng tờ bản đồ số 89, đất tọa lạc phường An TH, thành phố Hồng Ngự có hiệu lực pháp luật thì bà X không thống nhất. Yêu cầu Tòa án tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng QSD đất này vô hiệu, vì khi các bên thực hiện việc chuyển nhượng này là nhằm mục đích tẩu tán Tài sản, trốn tránh nghĩa vụ trả nợ của gia đình bà L cho bà X. Yêu cầu Tòa án tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 mà Tòa án đã áp dụng, để đảm bảo thi hành án cho bà X.

Ngoài ra nguyên đơn không yêu cầu khởi kiện hay trình bày gì thêm.

- Bị đơn bà Nguyễn Thị L trình bày: Bà thừa nhận các giấy nợ mà bà X cung cấp, bà thống nhất chữ ký và dấu lăng tay trong biên nhận ngày 28/5/2020 là của mình và anh H, thừa nhận là có thiếu số tiền như bà X trình bày là tổng 17.254.471.000đ. Vì hai bên là chỗ quen biết với nhau từ lâu, làm ăn qua lại rất nhiều lần khoảng trên 20 năm nay nên mới thiếu số tiền lớn như vậy. Lý do thiếu tiền này là bà mua vật tư nông nghiệp của bà X để bán lại và vay tiền của bà X cho người khác vay lại lấy tiền lời gia đình sinh sống. Nay bà X khởi kiện yêu cầu gia đình bà trả số tiền còn thiếu là 12.254.471.000đ tiền gốc và lãi là 1.678.248.000đ, tổng cộng gốc và lãi là 13.932.719.000đ thì bà không thống nhất, vì tính tới nay thì bà chỉ còn thiếu bà X số tiền là 4.254.471.000đ và thống nhất trả số tiền này, đối với tiền lãi thì bà xin bỏ, vì gia đình đang gặp khó khăn.

Trong quá trình làm ăn với nhau thì bà có chuyển nhượng cho bà X các quyền sử dụng đất, bà X tự tính giá trị các quyền sử dụng đất này là 5.000.000.000đ và tự trừ vào số tiền gốc. Bà không thống nhất việc này, vì khi chuyển nhượng các quyền sử dụng đất này thì bà X thống nhất là tạm tính giá để sau này sẽ tính toán lại theo giá thị trường thực tế hiện tại. Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án chị G có đưa cho bà X 500.000.000đ để bà X rút yêu cầu đối áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nay bà X phải cần trừ 500.000.000đ này vào số nợ còn thiếu cho bà. Cụ thể tính lại giá trị các QSD đất theo giá trị thực tế hiện tại như sau: Thứ nhất, đối với 04 nền nhà ở đường số 11, phường An TH, thành phố Hồng Ngự giá trị chuyển nhượng QSD đất lúc chuyển nhượng chỉ có giá 750.000.000đ/nền, nay theo giá thực tế yêu cầu phải cấn trừ là 1.500.000.000đ/nền, tổng giá trị QSD đất 04 nền này là 6.000.000.000đ, 04 nền này hiện bà X và ông T đã chuyển nhượng cho người khác rồi; Thứ hai, đối với diện tích đất 63.972m2, đất ruộng tọa lạc tại xã Tân Phước, huyện Tân Hồng, giá trị chuyển nhượng QSD đất lúc chuyển nhượng là 2.000.000.000đ, nay theo giá thực tế hiện tại là 3.000.000.000đ; Thứ ba, đối với 01 nền nhà ở đường Nguyễn Tất Thành, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, giá chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng là 1.750.000.000đ, nay giá chuyển nhượng theo thì trường hiện tại là 3.500.000.000đ. Như vậy, tổng số tiền thiếu bà X là 17.254.471.000đ, sau khi cần trừ giá trị các quyền sử dụng đất nói trên theo giá trị hiện tại tổng là 12.500.000.000đ và 500.000.000đ của chị G đưa cho bà X thì tính tới nay chỉ còn thiếu bà X số tiền gốc là 4.254.471.000đ.

Yêu cầu Tòa án chấp nhận yêu cầu của ông L và bà T, công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà L, ông Đ với ông L, bà T đối với diện tích đất thuộc các thửa số 68, 69, 41, 42, 43, cùng tờ bản đồ số 89, tọa lạc phường An TH, thành phố Hồng Ngự có hiệu lực pháp luật. Yêu cầu Tòa án hủy Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án, để bà và ông Đ làm thủ tục sang tên chuyển nhượng cho ông L, bà T các QSD đất mà bà đã chuyển nhượng này. Vì việc bà và ông Đ chuyển nhượng diện tích các thửa đất này cho bà T và ông L là đúng quy định pháp luật, bà không có hành vi tẩu tán Tài sản để né tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà X, vì các QSD đất nền nhà này trước khi chuyển nhượng cho ông L, bà T thì đã bị Cơ quan Thi hành án kê biên để thi hành án và đang thế chấp vay tiền ở ngân hàng. Mục đích chuyển nhượng là lấy tiền chuyển nhượng trả ngân hàng và thi hành án, việc này cũng được Cơ quan thi hành án và Ngân hàng đồng ý. Hiện nay bà đã nhận đủ tiền chuyển nhượng của ông L và bà T và đã giao đất cho họ quản lý, sử dụng.

Ngoài ra bà không trình bày hay yêu cầu gì thêm.

- Bị đơn anh Trình Hữu H trình bày: Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật, anh xin vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan chị Trình Thị N trình bày: Không thống nhất L đới trả nợ còn thiếu cho bà X vì hiện nay chị đã có hộ khẩu gia đình riêng rồi, chị không biết và L quan gì tới số nợ này.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan ông Trình Văn Đ: Không có ý kiến.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan chị Huỳnh Thị Ngọc H: Không có ý kiến.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan chị Nguyễn Thị Cẩm G trình bày:

Vào ngày 14/8/2020 chị có chuyển nhượng của chị Trình Thị N một nền nhà diện tích 90,0m2, thuộc thửa số 24, tờ bản đồ số 89, tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, nhưng trong quá trình sang tên, chuyển nhượng thì đã bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa nền nhà này nên không chuyển nhượng được. Chị có khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này có hiệu lực pháp luật. Nhưng nay bà X đã rút lại yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với phần diện tích đất này, nên chị cũng xin rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập của mình. Đối với phần tiền 500.000.000đ mà chị đã đưa cho bà X để bà X rút lại yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì số tiền này không L quan gì đến gia đình bà L, nên chị không thống nhất theo yêu cầu của bà L. Đây là chuyện riêng giữa chị và bà X, không L quan gì tới vụ án này. Trong vụ án này chị không tranh chấp hay yêu cầu gì.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan ông Trần Vĩnh T trình bày: Trong số tiền mà gia đình bà L thiếu bà X tranh chấp trong vụ án này thì ông (là anh bà X) có đưa cho bà X 4.000.000.000đ, để bà X cho gia đình bà L vay. Đây là tiền riêng của ông cho bà X vay để bà X cho gia đình bà L vay lại. Trong vụ án này ông không yêu cầu Tòa án giải quyết gì đối với bà X, bà L hay các đương sự khác. Các bị đơn và người L quan cứ trả tiền cho bà X. Còn việc vay tiền 4.000.000.000đ giữa ông và bà X thì ông không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này. Trong vụ án này ông không tranh chấp hay yêu cầu gì.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan ông Hà Thanh L trình bày: Vào khoảng tháng 7/2020 ông có thống nhất nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà L và ông Đ diện tích đất thuộc các thửa số 68, 69, cùng tờ bản đồ số 89, diện tích đất mỗi thửa là 90m2, đất tọa lạc tại phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Giá chuyển nhượng là 1.250.000.000đ/thửa. Hai bên đã tự nguyện thỏa thuận chuyển nhượng và hợp đồng chuyển nhượng đã được phòng công chứng chứng nhận hợp pháp, tiền ông đã trả đủ cho bà L nhiều lần tổng cộng là 2.500.000.000đ. Hồ sơ chuyển nhượng đã nộp vào bộ phần Một cửa để tiến hành thủ tục chuyển nhượng sang tên theo đúng quy định pháp luật, nhưng nay đã bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nên không thể tiếp tục thực hiện thủ tục được. Khi ông chuyển nhượng 02 thửa đất này thì ông không biết gia đình bà L bị bà X khởi kiện tại Tòa án, chỉ biết là đất chuyển nhượng này đang thế chấp vay tiền tại ngân hàng và bị Thi hành án kê biên. Ông thống nhất chuyển nhượng để đưa tiền cho bà L lấy giấy chứng nhận QSD đất ra để sang tên cho ông một cách hợp pháp. Việc ông trả tiền chuyển nhượng cho bà L là trực tiếp trả tại Ngân hàng, việc ông chuyển nhượng cũng được Cơ quan Thi hành án và Ngân hàng thống nhất. Việc chuyển nhượng này là công khai, minh bạch và tự nguyện nên không có việc ông cùng bà L tẩu tán Tài sản, trốn tránh nghĩa vụ gì đối với bà X. Nay ông đã trả tiền chuyển nhượng đủ và bà L đã giao đất cho ông quản lý, sử dụng rồi.

Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với bà L, ông Đ đối với các diện tích đất thuộc các thửa số 68, 69, cùng tờ bản đồ số 89, đất tọa lạc tại phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, diện tích đất mỗi thửa là 90m2 có hiệu lực pháp luật. Buộc bà L, ông Đ phải sang tên, chuyển nhượng cho ông diện tích các thửa đất này theo quy định pháp luật. Ông yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án. Trong vụ án này ông chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất có hiệu lực pháp luật và yêu cầu hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, ông không yêu cầu bà X hay các đương sự khác phải bồi thường thiệt hại gì cho ông cả. Trong trường hợp nếu yêu cầu của ông không được Tòa án chấp nhận thì ông yêu cầu bà L, ông Đ phải trả lại số tiền chuyển nhượng đã nhận của ông và lãi suất theo quy định của pháp luật từ khi họ nhận đủ tiền cho tới nay và được quyền ưu tiên thi hành án.

Ngoài ra ông không yêu cầu hay trình bày gì thêm.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan bà Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Bà có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà Nguyễn Thị L diện tích đất thuộc các thửa số 41, 42, 43, cùng tờ bản đồ số 89, đất tọa lạc tại phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, diện tích mỗi thửa là 90m2. Giá chuyển nhượng là 920.000.000đ/thửa. Hai bên đã tự nguyện thỏa thuận chuyển nhượng và hợp đồng chuyển nhượng đã được phòng công chứng chứng nhận hợp pháp, tiền chuyển nhượng bà đã trả đủ cho bà L rồi. Hồ sơ chuyển nhượng đã nộp vào bộ phần Một cửa để tiến hành thủ tục chuyển nhượng sang tên theo đúng quy định pháp luật, nhưng nay đã bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nên không thể tiếp tục thực hiện thủ tục được. Khi bà chuyển nhượng các thửa đất này thì bà không biết gia đình bà L bị bà X khởi kiện tại Tòa án, chỉ biết là đất chuyển nhượng này đang thế chấp vay tiền tại ngân hàng và bị Thi hành án kê biên. Bà thống nhất chuyển nhượng để đưa tiền cho bà L lấy giấy chứng nhận QSD đất ra để sang tên cho bà một cách hợp pháp. Việc bà chuyển nhượng này cũng được Cơ quan Thi hành án và ngân hàng thống nhất. Việc chuyển nhượng này là công khai, minh bạch và tự nguyện nên không có việc bà cùng bà L tẩu tán Tài sản, trốn tránh nghĩa vụ gì đối với bà X. Nay bà đã trả tiền chuyển nhượng đủ và bà L đã giao đất cho bà quản lý, sử dụng rồi.

Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với bà L đối với các diện tích đất thuộc các thửa số 41, 42, 43, cùng tờ bản đồ số 89, đất tọa lạc tại phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, diện tích mỗi thửa là 90m2 có hiệu lực pháp luật. Buộc bà L phải sang tên, chuyển nhượng cho bà diện tích các thửa đất này theo quy định pháp luật. Bà yêu cầu Tòa án hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án. Trong vụ án này bà chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết công nhận Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất có hiệu lực pháp luật và yêu cầu hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, bà không yêu cầu bà X hay các đương sự khác phải bồi thường thiệt hại gì cho bà cả. Trong trường hợp nếu yêu cầu của bà không được Tòa án chấp nhận thì bà yêu cầu bà L phải trả lại số tiền chuyển nhượng đã nhận của bà và lãi suất theo quy định của pháp luật từ khi nhận đủ tiền cho tới nay và được quyền ưu tiên thi hành án.

* Tại quyết định của bản án sơ thẩm số 28/2021/DS-ST ngày 15/11/2021, Toà án nhân dân thành phố Hồng ngự đã tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Xiếu X về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị L, ông Trình Văn Đ, anh Trình Hữu H, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H phải L đới trả số tiền vay và mua vật tư nông nghiệp còn thiếu. Buộc bà Nguyễn Thị L, ông Trình Văn Đ, anh Trình Hữu H, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H phải có nghĩa vụ L đới trả số tiền vay và mua vật tự nông nghiệp còn thiếu cho bà Trần Xiếu X là 13.932.719.000đ (Mười ba tỷ chín trăm ba mươi hai triệu bảy trăm mười chín nghìn đồng). Trong đó gốc là 12.254.471.000đ và lãi 1.678.248.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hà Thanh L về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với bà Nguyễn Thị L và ông Trình Văn Đ có hiệu lực pháp luật.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hà Thanh L với bà Nguyễn Thị L và ông Trình Văn Đ đối với diện tích đất 90m2, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.

Ông Hà Thanh L được quyền sử dụng diện tích đất 90m2, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã được công nhận nêu trên.

Các đương sự được đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, điều chỉnh, đăng ký biến động đối với diện tích đất được công nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Thanh T về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với bà Nguyễn Thị L có hiệu lực pháp luật.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Thanh T với bà Nguyễn Thị L đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.

Bà Nguyễn Thị Thanh T được quyền sử dụng diện tích đất diện tích 90m2, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp được công nhận nêu trên.

Các đương sự được đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, điều chỉnh, đăng ký biến động đối với diện tích đất được công nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

(Kèm theo là Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự) 4. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Xiếu X về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hà Thanh L với bà Nguyễn Thị L và ông Trình Văn Đ đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89 và Hợp đồng chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Thanh T với bà Nguyễn Thị L đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89. Đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vô hiệu.

5. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị Cẩm G về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị Nguyễn Thị Cẩm G với chị Trình Thị N đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 24, tờ bản đồ số 89, tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp có hiệu lực pháp luật.

6. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Xiếu X về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị L với chị Trình Thị N đối với diện tích 90m2, thuộc thửa đất số 24, tờ bản đồ số 89, tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp vô hiệu.

7. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Xiếu X về việc buộc các bị đơn phải trả số vàng là 65 chỉ vàng 24kara 9T8.

8. Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ- BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã áp dụng, về việc phong tỏa Tài sản của người có nghĩa vụ, đối với các quyền sử dụng đất sau: Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89, cùng tọa lạc tại phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Các thửa đất này hiện nay do bà Nguyễn Thị L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

9. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị L, ông Trình Văn Đ, anh Trình Hữu H, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H phải có nghĩa vụ L đới chịu tiền án phí dân sự là 121.932.500đ.

Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm G số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0001425 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự.

Hoàn trả lại cho ông Hà Thanh L số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0008864, ngày 27/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự.

Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0008863 ngày 27/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự.

Bà Trần Xiếu X phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 600.000đ. Được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà X đã nộp là 60.360.000đ theo biên lai thu số 0001363 ngày 11/8/2020 và 300.000đ theo biên lai thu số 0001493 ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự. Bà X được nhận là tiền tạm ứng án phí chênh lệch đã nộp là 60.060.000đ.

- Về chi phí tố tụng: Bà Trần Xiếu X phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chổ là 400.000đ để hoàn trả lại cho ông Hà Thanh L 200.000đ và bà Nguyễn Thị Thanh T 200.000đ.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên quyền và thời hạn kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 24/11/2021, bà Trần Xiếu X kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị L, ông Trần Văn Đ với ông Hà Thanh L đối với diện tích 90m2, thuộc thửa 68, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa 69, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, TP Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vô hiệu.

Yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị L với bà Nguyễn Thị Thanh T đối với diện tích 90m2, thuộc thửa 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa 42, tờ bản đồ số 89, và diện tích 90m2 , thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, TP Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là vô hiệu.

Yêu cầu Tòa án tiếp tục duy trì giữ y quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 mà tòa án đã áp dụng để đảm bảo cho bà.

Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy bỏ quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2021/QĐ-BPKCTT ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự.

Ngày 30/11/2021, bà Nguyễn Thị L kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án số 28/2021/DS-ST, ngày 15/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự là cho bà và anh H con bà L đới trả nợ cho bà X là 4.254.471.000 đồng, những người khác trong gia đình không biết việc vay nợ của tôi và con tôi.

Chị Trình Thị N yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án số 28/2021/DS-ST, ngày 15/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự không đồng ý có nghĩa vụ L đới trả nợ cho bà X.

Tại phiên tòa phúc thẩm;

+ Bà Trần Xiếu X, bà Nguyễn Thị L, chị Trình Thị N, giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà X đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy án sơ thẩm do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không đưa Văn phòng công chứng và Công chứng viên đã thực hiện công chứng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình bà L với ông L, chị T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan, vì rằng các hợp đồng chuyển nhượng này là giả tạo do thực chất là nhằm mục đích tẩu tán Tài sản.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến: Xét kháng cáo của bà Trần Xiếu X, bà Nguyễn Thị L, chị Trình Thị N là không có căn cứ; nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà X, bà L, chị N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các T liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các T liệu chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm; sau khi nghe ý kiến của các đương sự và quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét kháng cáo của bà Trần Xiếu X, Hội đồng xét xử xét thấy:

Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà L, ông Đ với ông L thuộc thửa đất số 68 và 69 và Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bà L với bà T thuộc thửa đất số 41, 42, 43, cùng tờ bản đồ số 89 đều được công chứng và sang tên theo quy định của pháp luật, tức không vi phạm về mặt hình thức; các bên đã tiến hành giao nhận đủ tiền chuyển nhượng và quyền sử dụng đất xong, nên việc chuyển nhượng đã hoàn thành.

Về nội dung hợp đồng chuyển nhượng, thì trước khi phía bà L chuyển nhượng cho ông L, bà T thì các thửa đất này (các thửa 41, 42, 43, 68 và 69) đã được bà L, ông Đ thế chấp tại ngân hàng để vay tiền và đồng thời cũng đang bị Cơ quan thi hành án thành phố Hồng Ngự kê biên cưỡng chế để thi hành án cho người được thi hành án khác (bà Mai), nên việc các bên thống nhất là ông L, bà T trả tiền chuyển nhượng cho bà L để bà L trả tiền vay ngân hàng nhằm giải chấp và thi hành án để Cơ quan Thi hành án giải tỏa, lấy các Tài sản ra để các bên làm thủ tục chuyển nhượng và đều được phía Ngân hàng và cơ quan thi hành án đồng ý, thống nhất, là hoàn toàn phù hợp pháp luật; mặt khác, xét thời điểm phía gia đình bà L thế chấp các thửa đất này và bị cơ quan thi hành án kê biên để thi hành án là trước thời điểm giữa phía bà L chốt số nợ với bà X và đó là các khoản nợ có bảo đảm. Vì vậy, việc bà L, ông Đ chuyển nhượng diện tích các thửa đất này là nhằm mục đích trả nợ vay có bảo đảm cho ngân hàng và thi hành án với nghĩa vụ phải thi hành của phía bà L có trước chốt nợ với bà X thì không phải là hành vi tẩu tán Tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ cho bà X như bà X trình bày. Như vậy về nội dung hợp đồng chuyển nhượng cũng không trái pháp luật. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử không chấp nhận yêu cầu này của bà X (về việc yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình bà L với ông L, bà T là vô hiệu) là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà X về việc yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình bà L với ông L, bà T là vô hiệu.

Đối với yêu cầu kháng cáo của bà X yêu cầu tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, đồng thời hủy bỏ quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời số 01/2021/QĐ-BPKCTT ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, Hội đồng xét xử xét thấy: như nhận định trên, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình bà L với ông L, chị T là đã hoàn thành và phù hợp pháp luật, nên việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quyết định số 04/2020/QĐ-BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự là không có căn cứ, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chuyển nhượng, do đó, việc tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự đã ban hành quyết định số 01/2021/QĐ –BPKCTT ngày 15/11/2021 để hủy bỏ quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04 nói trên là đúng pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của bà X.

[2] Xét kháng cáo của bà L và chị N về việc không đồng ý việc chị N và anh H có nghĩa vụ L đới trả nợ cho bà X, Hội đồng xét xử xét thấy, bà L thừa nhận gia đình bà làm ăn, giao dịch với bà X từ lâu, gia đình bà L mua vật tư nông nghiệp của bà X bán lại cho người khác và vay tiền của bà X để cho vay lại lấy tiền lời phục vụ kinh tế chung cho gia đình, nên xác định số nợ 17.254.471.000đ là nợ chung của cả hộ gia đình bà L, trong đó có chị N và anh H; và căn cứ vào xác nhận của Công an thành phố Hồng Ngự thì chị N tách hộ khẩu gia đình vào ngày 21/10/2019, mà theo bà L trình bày thì khi bà vay tiền của bà X, làm ăn với bà X thì chị N vẫn còn chung hộ với bà; lý do chị N tách hộ khẩu riêng là do khi bà nhận chuyển nhượng được nền nhà ở khóm Bình Hưng, phường An TH và có xây dựng căn nhà lên ở thì nhà nước nói là phải có hộ khẩu tại đây để nhà nước quản lý nên mới tách chị N ra hộ khẩu về địa chỉ phần đất nền nhà này. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chị N và anh H cũng phải có nghĩa vụ L đới trả nợ cho bà X là có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử bác yêu cầu kháng cáo này của bà L và chị N.

[3] Xét lời trình bày và đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà X đề nghị hủy án sơ thẩm vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng khi không đưa Văn phòng công chứng và Công chứng viên đã thực hiện công chứng các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình bà L với ông L, chị T vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ L quan, vì rằng các hợp đồng chuyển nhượng này là giả tạo do thực chất là nhằm mục đích tẩu tán Tài sản, Hội đồng xét xử xét thấy: như nhận định trên, các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa gia đình bà L với ông L, chị T đều là có thật, rõ ràng; việc gia đình bà L chuyển nhượng các thửa đất trên cũng là để thực hiện nghĩa vụ với Ngân hàng và người được thi hành án đồng thời được phía Ngân hàng và cơ quan thi hành án có thẩm quyền đồng ý, nên không có căn cứ cho rằng các hợp đồng chuyển nhượng trên là giả tạo và nhằm mục đích tẩu tán Tài sản và vì vậy việc Phòng công chứng cũng Công chứng viên đã căn cứ vào hồ sơ yêu cầu công chứng để thực hiện việc công chứng là đúng pháp luật; các bên giao kết hợp đồng cũng không có tranh chấp và các hợp đồng này nay cũng được Tòa án công nhận là hợp pháp, nên việc giải quyết vụ án không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của Phòng công chứng và Công chứng viên đã thực hiện công chứng. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận lời trình bày và đề nghị này của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà X.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự kháng cáo đều không xuất trình được T liệu, chứng cứ gì khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử bác toàn bộ kháng cáo của các đương sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu về việc tuân thủ pháp luật từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đều thực hiện đúng quy định của pháp luật và không có kiến nghị. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề xuất hướng giải quyết là không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các đương sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị trên là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

[6] Về án phí phúc thẩm: do bản án sơ thẩm được giữ nguyên nên các đương sự kháng cáo đều phải chịu án phí phúc thẩm theo luật định.

[7] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1, Điều 148 và khoản 1, Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 117, Điều 357, Điều 430, Điều 440, 463, 466, 468, 500, 501, 502 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 166, 167 Luật đất đai năm 2013.

Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Xiếu X, bà Nguyễn Thị L, chị Trình Thị N.

2. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 28/2021/DS-ST ngày 15/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Xiếu X về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị L, ông Trình Văn Đ, anh Trình Hữu H, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H phải L đới trả số tiền vay và mua vật tư nông nghiệp còn thiếu. Buộc bà Nguyễn Thị L, ông Trình Văn Đ, anh Trình Hữu H, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H phải có nghĩa vụ L đới trả số tiền vay và mua vật tư nông nghiệp còn thiếu cho bà Trần Xiếu X là 13.932.719.000đ (Mười ba tỷ chín trăm ba mươi hai triệu bảy trăm mười chín nghìn đồng). Trong đó gốc là 12.254.471.000đ và lãi 1.678.248.000đ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Hà Thanh L về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với bà Nguyễn Thị L và ông Trình Văn Đ có hiệu lực pháp luật.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hà Thanh L với bà Nguyễn Thị L và ông Trình Văn Đ đối với diện tích đất 90m2, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.

Ông Hà Thanh L được quyền sử dụng diện tích đất 90m2, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã được công nhận nêu trên.

Các đương sự được đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, điều chỉnh, đăng ký biến động đối với diện tích đất được công nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Nguyễn Thị Thanh T về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với bà Nguyễn Thị L có hiệu lực pháp luật.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Thanh T với bà Nguyễn Thị L đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật.

Bà Nguyễn Thị Thanh T được quyền sử dụng diện tích đất diện tích 90m2, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89, đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp được công nhận nêu trên.

Các đương sự được đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để kê khai, điều chỉnh, đăng ký biến động đối với diện tích đất được công nhận trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

(Kèm theo là Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 23/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự) 4. Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Xiếu X về việc yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hà Thanh L với bà Nguyễn Thị L và ông Trình Văn Đ đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89 và Hợp đồng chuyển chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Thanh T với bà Nguyễn Thị L đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; diện tích 90m2, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89 và diện tích 90m2, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89. Đất cùng tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, hiện do bà Nguyễn Thị L đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vô hiệu.

5. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của chị Nguyễn Thị Cẩm G về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa chị Nguyễn Thị Cẩm G với chị Trình Thị N đối với diện tích 90m2, thuộc thửa số 24, tờ bản đồ số 89, tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp có hiệu lực pháp luật.

6. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Xiếu X về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị L với chị Trình Thị N đối với diện tích 90m2, thuộc thửa đất số 24, tờ bản đồ số 89, tọa lạc tại khóm Bình Hưng, phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp vô hiệu.

7. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của bà Trần Xiếu X về việc buộc các bị đơn phải trả số vàng là 65 chỉ vàng 24kara 9T8.

8. Hủy bỏ Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 04/2020/QĐ- BPKCTT ngày 16/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã áp dụng, về việc phong tỏa Tài sản của người có nghĩa vụ, đối với các quyền sử dụng đất sau: Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 41, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 43, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 42, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 68, tờ bản đồ số 89; Diện tích 90m2, loại đất ở tại đô thị, thuộc thửa số 69, tờ bản đồ số 89, cùng tọa lạc tại phường An TH, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Các thửa đất này hiện nay do bà Nguyễn Thị L đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

9. Về án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng:

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị L, ông Trình Văn Đ, anh Trình Hữu H, chị Trình Thị N và chị Huỳnh Thị Ngọc H phải có nghĩa vụ L đới chịu tiền án phí dân sự là 121.932.500đ.

Hoàn trả lại cho chị Nguyễn Thị Cẩm G số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0001425 ngày 05/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự.

Hoàn trả lại cho ông Hà Thanh L số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0008864, ngày 27/01/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự.

Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị Thanh T số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu số 0008863 ngày 27/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự.

Bà Trần Xiếu X phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 600.000đ. Được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà X đã nộp là 60.360.000đ theo biên lai thu số 0001363 ngày 11/8/2020 và 300.000đ theo biên lai thu số 0001493 ngày 03/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự. Bà X được nhận là tiền tạm ứng án phí chênh lệch đã nộp là 60.060.000đ.

- Về chi phí tố tụng: Bà Trần Xiếu X phải chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chổ là 400.000đ để hoàn trả lại cho ông Hà Thanh L 200.000đ và bà Nguyễn Thị Thanh T 200.000đ.

- Về án phí phúc thẩm: bà X, bà L và chị N mỗi người phải chịu 300.000đ, nhưng đều được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà các đương sự đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0006360 ngày 25/11/2021, biên lai số 0006370 và 0006371 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án thành phố Hồng Ngự (đã nộp xong).

- Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7,7a,7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

687
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất số 179/2022/DS-PT

Số hiệu:179/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;