TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1254/2023/KDTM-PT NGÀY 26/12/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN
Trong các ngày 20 và ngày 26-12-2023, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 118/2023/TLPT-KDTM ngày 11-10-2023.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/KDTM-ST ngày 19-7-2023 của Toà án nhân dân Quận 4 bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5476/2023/QĐ-PT ngày 22-11-2023, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) Địa chỉ: Tầng A, tòa nhà N, 2 C, Phường D, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lê Thị Phương Y, sinh năm 1985; Địa chỉ: C U, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền ngày 05-12-2016) (có mặt)
Bị đơn: Công ty TNHH Một thành viên V1 Địa chỉ: 108 V, Phường D, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Phạm Thị Liên H, địa chỉ: M, Chung cư H, Phường I, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền (văn bản ủy quyền số 01-11/UQ-DAINAM09 ngày 20-11-2023) (có mặt) Người kháng cáo: Nguyên đơn Tổng Công ty Cổ phần B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 23-11-2016 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) là Nhà bảo hiểm hàng hóa cho các lô hàng gạo đóng bao của Công ty TNHH Một thành viên - (Vinafood II) gồm (i) lô hàng 90.000 bao/trong lượng tịnh 4.500 tấn (Net weight) được vận chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh đến C, Phillipines theo vận đơn số 36/PH4-25/15 và (ii) lô hàng 90.000 bao/trong lượng tịnh 4.500 tấn (Net weight) được vận chuyển từ Thành phố Hồ Chí Minh đến cảng C, Phillipines theo vận đơn số 06/PH425/15 cấp ngày 24-10-2015. Cả hai lô hàng trên đều được vận chuyển trên tàu DAI NAM 09.
Công ty TNHH Một thành viên V1 (sau đây gọi tắt là Công ty V1) là người vận chuyển trực tiếp cho các lô hàng trên theo các Hợp đồng vận chuyển đã ký kết giữa Công ty V1. Hàng hóa của các lô hàng này được xếp xuống tàu Dai Nam 09 đầy đủ số lượng và không bị tổn thất theo Vận đơn đường biển cùng một số chứng từ khác. Tuy nhiên, trong quá trình dỡ hàng tại P, một số hàng hóa đã bị rách vỡ, rơi vãi, không thu hồi được dẫn đến hàng hóa giao bị thiếu. Cụ thể như sau:
|
Lô hàng số 1 |
Lô hàng số 2 |
|
Vận đơn đường biển số 36/PH4- 25/15 cấp ngày 21-02-2016 |
Vận đơn đường biển số 06/PH4- 25/15 cấp ngày 24-10-2015 |
|
Cảng xếp/cảng dỡ: Hồ Chí Minh/ CEBU (Phillipines) |
Cảng xếp/cảng dỡ: Hồ Chí Minh/ CEBU (Phillipines) |
|
Số lượng hàng xếp lên tàu tại HCM: 90.000 bao/4.500 tấn |
Số lượng hàng xếp lên tàu tại HCM: 90.000 bao/4.500 tấn |
|
Ngày dỡ hàng xong tại CEBU: 12-3- 2016 |
Ngày dỡ hàng xong tại CDO: 16-11- 2016 |
|
Lượng hàng hóa bị tổn thất, thiếu hụt khi giao tại CEBU: 36,2 tấn |
Lượng hàng hóa bị tổn thất, thiếu hụt khi giao tại C.D.O: 19,062 tấn |
|
Giá trị tổn thất: 380.683.421 đồng |
Giá trị tổn thất: 191.921.513 đồng |
|
Thông báo bồi thường HT0028/16HB 08GD và thế quyền ngày 07-9-2016 |
Thông báo bồi thường HT0011/16HB 08GD và thế quyền ngày 21-6-2016 |
|
Tổng cộng: 572.604.934 đồng (Năm trăm bảy mươi hai triệu sáu trăm lẻ bốn ngàn chín trăm ba mươi tư đồng) |
|
Toàn bộ các tổn thất này đã được Tổng Công ty B bồi thường cho Vinafood II và Tổng Công ty B đã nhận thế quyền của V1 để truy đòi Người vận chuyển theo quy định.
Nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu Công ty V1 bồi hoàn lại giá trị tổn thất nêu trên cũng như cùng thương lượng tim cách giải quyết. Tuy nhiên, đến nay Công ty V1 không có thiện chí giải quyết vụ việc.
Do vậy, căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hàng hải 2005 và Bộ luật Dân sự 2005, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty V1 bồi thường cho nguyên đơn số tiền 572.604.934 đồng.
Bị đơn - Công ty TNHH Một thành viên V1 trình bày:
Theo trình tự thông thường, sau khi nhận được Thư Khiếu nại việc thiếu hàng của Tổng Công ty B, Công ty V1 sẽ phản hồi/thông báo cụ thể Tên Chủ tàu, Tên Công ty B1 để Tổng Công ty B gửi hồ sơ đòi bồi thường trực tiếp. Tuy nhiên, đối với tàu Đ 09, Công ty V1 chưa từng nhận được bất kỳ Thông báo hoặc chứng từ nào của Tổng Công ty B về việc thiếu hàng nói trên. Do đó, trong Đơn Khởi kiện nguyên đơn nêu đã nhiều lần yêu cầu/thương lượng với bị đơn là hoàn toàn không đúng sự thật. Đề nghị nguyên đơn đưa ra chứng từ chứng minh đã yêu cầu/ thương lượng nhiều lần mà Công ty V1 không hợp tác.
Theo như hồ sơ khiếu nại bồi thường, nguyên đơn đã gửi nhầm cho Chủ tàu. Chuyến thứ 1, Công ty L đã phản hồi cho nguyên đơn về việc gửi nhầm hồ sơ nói trên. Chuyến thứ 2, Công ty N chưa nhận được hồ sơ nào từ nguyên đơn. Bị đơn đã thông báo cho Tổng Công ty B về sự nhầm lẫn trên ngay khi nhận được khiếu nại.
Công ty V1 là Chủ tàu trung gian, ký lại 02 Hợp đồng vận chuyển gạo tàu Đ 09 đi Philippines, cụ thể như sau: Chuyến 1: Ký với Công ty TNHH L, là Công ty thuê tàu trung gian thứ 2 và là đơn vị mua bảo hiểm hàng hóa cho tàu Đ 09 tại thời điểm trên. Chuyến 2: Ký với Công ty Cổ phần N là Công ty thuê tàu trung gian thứ 2. Đơn vị mua bảo hiểm hàng hóa cho tàu Đ 09 tại thời điểm này là Chủ sở hữu tàu Công ty TNHH V2. Theo như Giấy Chứng nhận Bảo hiểm hàng hóa (PNI), Công ty B1 là đơn vị chịu trách nhiệm bảo hiểm hàng hóa xếp trên tàu Đ 09 cho cả 2 chuyến hàng trên. Chủ tàu đã mua bảo hiểm hàng hóa qua Công ty B1, nên việc bồi thường hàng hóa thiếu hụt/hư hỏng trên tàu thuộc trách nhiệm giải quyết trực tiếp của Công ty B1 và Chủ tàu. Đề nghị nguyên đơn gửi hồ sơ đòi bồi thường/khởi kiện trực tiếp đến Công ty B1 và Chủ tàu để khiếu nại việc thiếu hàng nói trên. Bị đơn luôn sẵn sàng hợp tác với nguyên đơn khi có yêu cầu.
Tổng Công ty B2 trình bày:
Về việc bảo hiểm của Công ty B1 đối với tàu Đ 09: Ngày 13-82015, B1 cấp Đơn bảo hiểm số MLH/00940227 cho Công ty TNHH L, nội dung như sau: (i) Loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự tàu biển P&I; (ii) Người được bảo hiểm: Công ty TNHH L; (iii) Thời hạn Bảo hiểm: Từ 15-82015 đến 15-8-2016; (iv) Đối tượng bảo hiểm: tàu Đ 09. Ngày 16-022016, Đơn bảo hiểm số MLH/00940227 đã được các bên đồng ý thỏa thuận chấm dứt hiệu lực do Công ty TNHH L đề nghị hủy hợp đồng.
Cùng ngày 16-02-2016, Công ty TNHH L yêu cầu B Hải Phòng cấp Đơn bảo hiểm trách nhiệm dân sự P&I tàu Đ 09 cho Người được bảo hiểm là Công ty TNHH V2 với các nội dung cơ bản như sau: (i) Loại hình bảo hiểm: Bảo hiểm trách nhiệm dân sự tàu biển P&I; (ii) Người được bảo hiểm: Công ty TNHH V2; (iii) Thời hạn Bảo hiểm: Từ 16-02-2016 đến 16-02-2017; (iv) Đối tượng bảo hiểm: tàu Đ 09. Đơn bảo hiểm số MLH/01041204 đã chấm dứt hiệu lực vào ngày 16-5-2016 do Công ty TNHH V2 không thanh toán phí kì đúng hạn. Như vậy, Công ty B1 chỉ bảo hiểm cho tàu Đ 09 từ ngày 15-82015 đến ngày 16-5-2016.
Trong suốt thời gian bảo hiểm, Công ty TNHH L và Công ty TNHH V2 không có bất kỳ yêu cầu hay khiếu nại bồi thường nào đối với Công ty B1. Vì vậy, Công ty B1 không phát sinh bất cứ trách nhiệm bảo hiểm liên quan nào đến Công ty TNHH L và Công ty TNHH V2 liên quan đến tàu Đ 09 trong suốt thời gian bảo hiểm. Hơn nữa, giả sử trong trường hợp Công ty TNHH L và Công ty TNHH V2 có khiếu nại bồi thường Công ty B1 đối với tổn thất của tàu Đ 09 thì người được bảo hiểm cũng đã hết thời hạn yêu cầu trả tiền bảo hiểm và thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật. Do đó, Công ty B1 không phát sinh bất cứ trách nhiệm nào đối với vụ án này.
Về quan hệ giữa Công ty B1 và Công ty V1: Công ty B1 không có bất kỳ mối quan hệ hợp đồng bảo hiểm nào đối với Công ty V1 và Công ty B1. Công ty V1 không đưa được bất kỳ bằng chứng nào thể hiện Công ty B1 là một bên liên quan đến vụ án. Việc Công ty V1 đề xuất Toà án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đưa Công ty B1 làm Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là hoàn toàn không có cơ sở.
Về việc đưa Công ty B1 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Căn cứ Điều 1 Giấy phép thành lập và hoạt động số 27GP/KDBH ngày 08-9-2004 của Tổng Công ty Cổ phần B2 do Bộ T cấp thể hiện: Các công ty thành viên của Bảo M là các đơn vị hạch toán phụ thuộc, có con dấu riêng và mở tài khoản tại ngân hàng theo các quy định của pháp luật Việt Nam. Xét Công ty B1 là Công ty thành viên của Tổng Công ty Cổ phần B2Minh không có tư cách pháp nhân, hoạt động theo Điều lệ và ủy quyền của Người đại diện theo pháp luật của Tổng Công ty Cổ phần B2. Do đó, việc Toà án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đưa Công ty B1 với tư cách Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là không đúng đối tượng và trái quy định của pháp luật. Công ty B1 không phát sinh bất kỳ trách nhiệm nào trong vụ việc này.
Đề nghị Toà án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh không đưa Công ty B1 vào một bên của của vụ án, xin vắng mặt và không tham gia các phiên tòa, các buổi làm việc liên quan (nếu có).
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/KDTM-ST ngày 19-7-2023 của Toà án nhân dân Quận 4 đã quyết định:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) về việc yêu cầu Công ty TNHH Một Thành viên V1 phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) số tiền thiệt hại về hàng hóa theo Hợp đồng vận chuyển số 22/VNF-KIMBINH /PHIL-2015 ký ngày 12-10-2015 và Hợp đồng vận chuyển số 02/VNF-KIMBINH/ PHIL-2016 ký ngày 05-02-2016 giữa Tổng Công ty - (Vinafood II) và Công ty TNHH Một Thành viên V1, tổng cộng là 572.604.934 (năm trăm bảy mươi hai triệu, sáu trăm lẻ bốn nghìn, chín trăm ba mươi bốn) đồng.
2. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) phải nộp: 26.904.197 (hai mươi sáu triệu, chín trăm lẻ bốn nghìn, một trăm chín mươi bảy) đồng. Số tiền này được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) đã nộp là 13.452.000 (mười ba triệu, bốn trăm năm mươi hai nghìn) đồng theo biên lai số AG/2014/0007279 ngày 06-01-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4. Tổng Công ty Cổ phần B (GIC) còn phải nộp thêm 13.452.197 (mười ba triệu, bốn trăm năm mươi hai nghìn, một trăm chín mươi bảy) đồng.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo, kháng nghị, quyền thi hành án của đương sự theo luật định.
Sau khi Toà án nhân dân Quận 4 xét xử, Tổng Công ty Cổ phần B có Đơn kháng cáo để ngày 01-8-2023, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, Ý kiến của nguyên đơn, người kháng cáo: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Ý kiến của bị đơn: Không đồng ý với nội dung kháng cáo của nguyên đơn. Đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên toà và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự: Không chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty Cổ phần B. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/KDTM-ST ngày 19-7-2023 của Toà án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Tổng Công ty Cổ phần B nhận thế quyền từ V1 khởi kiện Công ty TNHH MTV V1 yêu cầu bồi thường thiệt hại hàng hóa theo Hợp đồng vận chuyển số 22/VNF-KIMBINH /PHIL-2015 ngày 12-10-2015 và Hợp đồng vận chuyển số 02/VNFKIMBINH/PHIL-2016 ngày 05-02-2016 giữa V1 và Công ty V1. Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hợp đồng vận chuyển. Bị đơn có trụ sở tại Quận D nên Toà án nhân dân Quận 4 xét xử sơ thẩm là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn có mặt tại phiên toà sơ thẩm ngày 19-7-2023, Đơn kháng cáo của nguyên đơn gửi đến Toà án cấp sơ thẩm ngày 03-8-2023 là trong thời hạn luật định nên Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo thủ tục phúc thẩm quy định tại điểm b khoản 3 Điều 38 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[3] Về xác định quan hệ tranh chấp, Hội đồng xét xử nhận thấy: Nguyên đơn xác nhận nguyên đơn đã thực hiện trách nhiệm bồi thường cho Vinafood II theo hợp đồng bảo hiểm số GD0007/16HB08GD và hợp đồng bảo hiểm số GD1312/15HB08GD; ngày 07-9-2016 và ngày 21-6-2016, Vinafood II có giấy biên nhận và thế quyền theo đó V1 đồng ý chuyển quyền và thế nhiệm cho nguyên đơn tất cả quyền hạn của V1 có liên quan đến lô hàng được bảo hiểm, số tiền bồi thường. Trên cơ sở đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán tiền bồi thường thiệt hại hàng hóa do lỗi của bị đơn gây ra trong quá trình vận chuyển. Như vậy tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng vận chuyển phát sinh từ Hợp đồng vận chuyển số 22/VNF-KIMBINH /PHIL-2015 ngày 1210-2015 và Hợp đồng vận chuyển số 02/VNF-KIMBINH/PHIL-2016 ngày 0502-2016 giữa V1 và Công ty V1. Cấp sơ thẩm xác định đây là “tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” là không chính xác.
[4] Về xác định người tham gia tố tụng: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, ý kiến của bị đơn cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy, Tổng Công ty Cổ phần B2, Công ty TNHH L, Công ty Cổ phần N và Công ty TNHH V2 không trực tiếp tham gia, ký kết vào hợp đồng vận chuyển nên không phát sinh quyền, nghĩa vụ trong quan hệ tranh chấp giữa Tổng Công ty Cổ phần B và Công ty TNHH Một thành viên V1. Đối với Công ty TNHH Một thành viên - (V1) là một bên trong 02 hợp đồng vận chuyển số 22/VNF-KIMBINH /PHIL-2015 ngày 12-10-2015 và Hợp đồng vận chuyển số 02/VNF-KIMBINH/PHIL-2016 ngày 05-02-2016 với Công ty V1, tuy nhiên Vinafood II đã nhận tiền bồi thường thiệt hại từ Tổng Công ty B liên quan đến các lô hàng do Công ty V1 vận chuyển; Vinafood II đã ký Giấy Biên nhận và Thế quyền cho Tổng Công ty B khởi kiện bên vận chuyển Công ty V1. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết đưa Tổng Công ty Cổ phần B2, Công ty TNHH L, Công ty Cổ phần N, Công ty TNHH V2 và Công ty TNHH Một thành viên - tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[5] Xét các tài liệu do nguyên đơn cung cấp bao gồm: Hợp đồng vận chuyển số 22/VNF-KIMBINH /PHIL-2015 ký ngày 12-10-2015 và Hợp đồng vận chuyển số 02/VNF-KIMBINH/PHIL-2016 ký ngày 05-02-2016 giữa V1 và Công ty V1 được Văn phòng C chứng thực bản sao đúng với bản chính, số chứng thực 34134, quyền số 01 SCT ngày 18-7-2023 và số chứng thực 34135, quyền số 01 SCT/BS ngày 18-7-2023; Thông báo tổn thất số 297B ngày 17-112015 và số 47A ngày 27-6-2016 là tài liệu tiếng Việt, bản chính (Bút lục số 444, 448); Văn bản yêu cầu bồi thường do V1 lập số 260A ngày 17-11-2015 và số 47B ngày 27-6-2016 đã được dịch thuật, chứng thực hợp pháp tại Phòng Tư pháp Quận 10 ngày 22-6-2023; Giấy Biên nhận và Thế quyền do V1 lập ngày 21-6-2016 và ngày 07-9-2016 được Văn phòng C1 chứng thực bản sao đúng với bản chính ngày 16-5-2023. Do đó, các tài liệu này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 95, khoản 3 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[6] Xét các tài liệu do nguyên đơn cung cấp bao gồm: Biên bản dữ hàng (Cargo discharged/ Delivered O) do InterTek lập; chứng nhận bốc hàng (U) do Golden Orient Ship Management & Agencies INC lập ngày 16-11-2015 và ngày 25-6-2016 là các tài liệu do tổ chức nước ngoài lập nhưng không được hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 478 Bộ luật Tố tụng dân sự: “khoản 1: Toà án Việt Nam công nhận giấy tờ, tài liệu do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nước ngoài lập, cấp, xác nhận trong các trường hợp sau: a) Giấy tờ, tài liệu và bản dịch tiếng Việt có công chứng, chứng thực đã được hợp pháp hoá lãnh sự”. Tại cấp sơ thẩm cũng như phúc thẩm nguyên đơn xác định không cung cấp được các tài liệu được hợp pháp hoá lãnh sự nói trên theo quy định. Mặt khác, các tài liệu này được dịch không đúng về ngày chứng kiến việc dữ hàng, tổng số hàng đã dỡ, ngày cấp vận đơn so với bản gốc (Bút lục số 419, 420, 422, 424); tương tự ngày bắt đầu bên gửi hàng, ngày hoàn thành bên nhận hàng, ngày chứng kiến việc dữ hàng (Bút lục số 410, 414). Do đó, Toà án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 1 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định nguyên đơn không giao nộp được tài liệu dùng làm chứng cứ hợp pháp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có cơ sở.
[7] Xét nguyên đơn không cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy: Nguyên đơn cho rằng bị đơn đã ký xác nhận Yêu cầu bồi thường số 260A ngày 17-11-2015 và số 47B ngày 27-6-2016 do Vinafood II gửi cho bị đơn, bị đơn không có ý kiến phản hồi bằng văn bản, xem như bị đơn đồng ý nội dung yêu cầu bồi thường. Phía bị đơn trình bày tại 2 văn bản yêu cầu bồi thường nêu trên bị đơn chỉ ký nhận, thể hiện bị đơn ghi rõ “chỉ là biên nhận” (“Receipt only”) và ký tên, đóng dấu; bị đơn không xác nhận nội dung văn bản. Mặt khác, nguyên đơn không cung cấp được tài liệu chứng cứ hợp pháp làm cơ sở chứng minh số lượng hàng hóa thiếu hụt theo 02 văn bản yêu cầu bồi thường số 260A ngày 17-11-2015 và số 47B ngày 27-6-2016. Đồng thời, nguyên đơn cũng không cung cấp được bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp đối với 02 vận đơn số 06/PH4- 25/15 ngày 24-10-2015 và vận đơn số 36/PH4- 25/15 ngày 21-02-2016 nhằm xác định trách nhiệm của bị đơn liên quan đến hợp đồng vận chuyển bị đơn ký kết với V1.
[8] Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự tại cấp sơ thẩm cũng như tại phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ xác định số lượng hàng hóa tổn thất, giá trị tổn thất, trách nhiệm của bị đơn gây ra tổn thất hàng hóa trong quá trình dữ hàng tại cảng đến Philippines; do đó cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/KDTM-ST ngày 19-7-2023 của Toà án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
[9] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[10] Về án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên, Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bố luật Tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo của Tổng Công ty Cổ phần B. Giữ nguyên các quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 24/2023/KDTM-ST ngày 19-7-2023 của Toà án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng khoản 1 Điều 30, điểm b khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; Luật Thi hành án dân sự;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Tổng Công ty Cổ Phần B (GIC) về việc yêu cầu Công ty TNHH Một Thành Viên V1 phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty Cổ Phần B (GIC) số tiền thiệt hại về hàng hóa theo Hợp đồng vận chuyển số 22/VNF-KIMBINH /PHIL-2015 ký ngày 12-10-2015 và Hợp đồng vận chuyển số 02/VNF-KIMBINH/ PHIL-2016 ký ngày 05-02-2016 giữa Tổng Công ty - (Vinafood II) và Công ty TNHH Một Thành Viên V1 tổng cộng là 572.604.934 (năm trăm bảy mươi hai triệu, sáu trăm lẻ bốn nghìn, chín trăm ba mươi bốn) đồng.
2. Về án phí kinh doanh thương mại:
Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Tổng Công ty Cổ Phần B (GIC) phải chịu là 26.904.197 (hai mươi sáu triệu, chín trăm lẻ bốn nghìn, một trăm chín mươi bảy) đồng, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 13.452.000 (mười ba triệu, bốn trăm năm mươi hai nghìn) đồng theo biên lai số AG/2014/0007279 ngày 06-01-2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng Công ty Cổ Phần B (GIC) còn phải nộp thêm 13.452.197 (mười ba triệu, bốn trăm năm mươi hai nghìn, một trăm chín mươi bảy) đồng.
Án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm: Tổng Công ty Cổ Phần B (GIC) phải chịu án phí phúc thẩm là 2.000.000 (hai triệu) đồng, được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.000.000 (hai triệu) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2023/0042373 ngày 08-8-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vận chuyển số 1254/2023/KDTM-PT
| Số hiệu: | 1254/2023/KDTM-PT |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
| Lĩnh vực: | Kinh tế |
| Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về