TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THẾ, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 54/2024/DS-ST NGÀY 17/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 17/9/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 46/2024/TLST-DS ngày 06 tháng 5 năm 2024 về việc "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2024/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 90/2024/QĐST-DS ngày 29/8/2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng N. Địa chỉ: B L, phường T, quận B, Hà Nội.
- Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện N, Bắc Giang II. Địa chỉ: Số A, đường H, thị trấn P, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Quang V - Chức vụ: Giám đốc. Đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Hồng S - Cán bộ ngân hàng (có mặt).
- Bị đơn: Bà Trần Thị M, sinh năm 1985 (vắng mặt). Ông Phan Văn H, sinh năm 1978 (vắng mặt). Địa chỉ: Bản Đ, xã C, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa, ông Vũ Hồng S là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 01/9/2021, bà Trần Thị M, sinh năm 1985 ở bản Đ, xã C, huyện Y được sự ủy quyền của ông Phan Văn H, sinh năm 1978 (ở cùng địa chỉ với bà M) ký kết Hợp đồng tín dụng số 2508LAV202101931 với Chi nhánh huyện Y, Bắc Giang II (sau đây gọi tắt là Ngân hàng). Hạn mức cho vay: 97.000.000 đồng; Mục đích sử dụng vốn vay: Phục vụ sản xuất kinh doanh và nhu cầu đời sống; Thời gian duy trì hạn mức: 36 tháng kể từ ngày ký kết hợp đồng, số tiền gốc còn nợ đến thời điểm hiện tại là 97.000.000 đồng. Tính đến hết ngày 10/4/2024, tổng số tiền bà M còn phải trả cho Ngân hàng tạm tính là: 119.777.245 đồng (trong đó: nợ gốc 97.000.000 đồng; nợ lãi 22.233.560 đồng và nợ lãi chậm trả: 543.685 đồng). Ngân hàng đã nhiều lần làm việc trực tiếp và có văn bản yêu cầu bà M thực hiện nghĩa vụ trả nợ nêu trên. Tuy nhiên, bà M vẫn không thực hiện nghĩa vụ trả toàn bộ nợ gốc, nợ lãi, liên tiếp vi phạm nghĩa vụ đã cam kết, không hợp tác, không phối hợp xử lý tài sản bảo đảm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng, gây khó khăn cho công tác thu hồi vốn của Nhà nước và quá trình xử lý, thu hồi nợ của Ngân hàng. Nay Ngân hàng đề nghị: Buộc bà M và ông H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ số tiền tạm tính đến ngày 10/4/2024 là 119.777.245 đồng (trong đó: số tiền gốc là 97.000.000đ, số tiền lãi là 22.233.560đ, lãi chậm trả là 543.685đ) và số lãi phát sinh cho đến khi trả hết nợ theo lãi suất quy định của Ngân hàng.
Đối với bị đơn bà M, ông H hiện đang sinh sống tại địa phương nhưng Tòa án tống đạt và niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng của TAND huyện Yên Thế đối với bà M, ông H. Tại biên bản xác minh với Trưởng Bản Đ và biên bản xác minh với Công an xã C, huyện Y đều xác nhận: Bà M, ông H vẫn đăng ký hộ khẩu và cư trú tại: Bản Đ, xã C, huyện Y, tỉnh Bắc Giang và không làm thủ tục đăng ký chuyển hộ khẩu, bà M đi làm công nhân sáng đi làm đến tối thì về nhà, ông H không nhận, không ký biên bản. Tòa án đã gửi văn bản tố tụng và niêm yết đầy đủ văn bản tố tụng tại địa chỉ này. Như vậy, Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn bà M, ông H nhưng không đến làm việc, vắng mặt và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Tại phiên tòa, bà M, ông H vắng mặt.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thế phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đảm bảo theo quy định. Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, Điều 271, 273 BLTTDS; Điều 288; Điều 463, Điều 466, Điều 470 BLDS; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà M và ông H phải liên đới trả cho Ngân hàng tổng số tiền là 127.849.631 đồng (trong đó: nợ gốc 97.000.000 đồng; nợ lãi đến ngày xét xử sơ thẩm là 30.849.631 đồng). Về án phí: Bà M và ông H phải liên đới chịu án phí DSST là 6.392.481 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án và thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện, ngân hàng khởi kiện đối với hợp đồng tín dụng, nguyên đơn đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của bị đơn đối với bà M, ông H hiện đang sinh sống tại địa phương. Tòa án đã tống đạt cho ông H nhưng không nhận, không ký biên bản và không đến Tòa án để làm việc về các vấn đề có liên quan vụ án, không có văn bản trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Đối với bà M đi làm công nhân đến tối về nhà sống cùng ông H, Tòa án đã tiến hành các biện pháp xác minh nơi cư trú, xác minh địa chỉ theo pháp luật, cố tình giấu địa chỉ mà không thông báo địa chỉ làm việc mới cho phía nguyên đơn theo khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 BLDS. Tòa án căn cứ điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC lấy địa chỉ nơi cư trú trong hợp đồng tín dụng để tống đạt, niêm yết, xét xử vắng mặt. Tòa án đã tiến hành tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn nhưng không đến làm việc, vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
[2] Về thẩm quyền giải quyết: Ngân hàng khởi kiện yêu cầu trả số tiền đã cho vay đối với bà Trần Thị M, sinh năm 1985, ông Phan Văn H, sinh năm 1978. Địa chỉ: Bản Đ, xã C, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Tòa án nhân dân huyện Yên Thế đã thụ lý giải vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng theo thủ tục tố tụng dân sự là đúng pháp luật, đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành nên đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định. Tại phiên tòa, bị đơn đã được triệu tập lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án không thu thập được lời khai của bị đơn nhưng theo lời khai của đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng P với Hợp đồng tín dụng số 2508LAV202101931 ngày 01/9/2021, giấy đề nghị giải ngân kiêm giấy nhận nợ đã ký giữa các bên đã thể hiện bà M có vay số tiền 97.000.000 đồng, thời hạn vay 24 tháng được chia thành 2 kỳ trả nợ, kỳ hạn thứ nhất vào ngày 01/9/2022 trả 47.000.000 đồng, kỳ hạn tiếp theo 01/9/2023 trả còn lại 50.000.000 đồng. Cả 02 phân kỳ bà M đều không thực hiện trả lần nào. Do bà M không chấp hành trả nợ đúng theo phân kỳ là vi phạm khoản 2 Điều 5, điểm c khoản 2 Điều 7 và khoản 2 Điều 9 của Hợp đồng tín dụng số 2508LAV202101931 ngày 01/9/2021 và mục II.8, Báo cáo đề xuất giải ngân kiêm giấy nhận nợ số 2508LDS202104371 ngày 01/9/2021 nên Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 8 của Hợp đồng tín dụng số 2508LAV202101931 ngày 01/9/2021. Như vậy, bà Trần Thị M, ông Phan Văn H có vay của ngân hàng số tiền là 97.000.000 đồng, mục đích vay phục vụ hoạt động nhu cầu đời sống, lãi suất cho vay trong hạn là 10,17%/ năm, lãi suất quá hạn là 150% lãi suất trong hạn, lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ theo quy định. Nay Ngân hàng N - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện N, Bắc Giang II khởi kiện buộc bà Trần Thị M, ông Phan Văn H có trách nhiệm trả cho Ngân hàng tổng số tiền đến ngày 17/9/2024 là 127.849.631 đồng (trong đó: nợ gốc 97.000.000 đồng; nợ lãi tính từ ngày 01/9/2021 đến ngày 17/9/2024 là 43.251.246 đồng (sau khi đã trừ đi số tiền lãi bà M đã trả được là 13.327.374 đồng) = 29.923.872 đồng tiền lãi trong hạn và lãi quá hạn 925.759 đồng, tổng lãi là 30.849.631 đồng. Tổng cộng gốc và lãi là: 127.849.631 đồng là có căn cứ chấp nhận. Ngoài ra, bà Trần Thị M, ông Phan Văn H phải tiếp tục chịu lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng 2508LAV202101931, ngày 01/9/2021 đã ký kể từ ngày 18/9/2024 cho đến khi trả hết nợ là phù hợp.
Về trách nhiệm trả tiền: Ngày 25/8/2021, tại UBND xã C, ông H đã ủy quyền cho bà M thay mặt ông xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến việc vay vốn tại Ngân hàng nên bà M, ông H phải có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng tổng số tiền đến ngày xét xử sơ thẩm là 127.849.631 đồng.
[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ngân hàng được chấp nhận nên bà M, ông H phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Ngân hàng N - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện N, Bắc Giang II được hoàn trả số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 144, khoản 1 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 288, Điều 463, Điều 466, Điều 470 Bộ luật dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện N, Bắc Giang II đối với bà Trần Thị M, ông Phan Văn H. Buộc bà Trần Thị M, ông Phan Văn H phải có trách nhiệm liên đới trả cho Ngân hàng N - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện N, Bắc Giang II tổng số tiền là 127.849.631 đồng (bằng chữ: Một trăm hai mươi bảy triệu, tám trăm bốn mươi chín nghìn, sáu trăm ba mươi mốt đồng chẵn) (trong đó số tiền nợ gốc là 97.000.000 đồng, tiền nợ lãi tính đến ngày 17/9/2024 là 30.849.631 đồng - lãi trong hạn 29.923.872 đồng, lãi quá hạn 925.759 đồng).
- Bà Trần Thị M, ông Phan Văn H phải tiếp tục chịu lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng 2508LAV202101931, ngày 01/9/2021 đã ký kể từ ngày 18/9/2024 cho đến khi trả hết nợ.
2. Về án phí: Buộc bà Trần Thị M, ông Phan Văn H phải liên đới chịu 6.392.482 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả lại Ngân hàng N - Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện N, Bắc Giang II số tiền 2.990.000 đồng (do ông Đặng Văn Đ1 nộp) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004921 ngày 04/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 54/2024/DS-ST
Số hiệu: | 54/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thế - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về