Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 02/2022/DS-ST NGÀY 03/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 03 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2021/TLST-DS ngày 29 tháng 12 năm 2021 về việc “ Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn Th – Chức vụ: Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.

Địa chỉ: Số 2, LH, phường TC, quận BĐ, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Xuân L – Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S Quảng Ngãi. Theo quyết định uỷ quyền số: 2965/QĐ-NHNo-PC ngày 27/12/2019.

Địa chỉ: Tổ dân phố HG, thị trấn DL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Đinh Thị Ả, sinh năm 1998 và anh Nguyễn Thế H, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng mặt.

3. Người phiên dịch: Bà Đinh Thị H - Cán bộ hưu trí thị trấn Di Lăng, huyện Sơn Hà. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/12/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Đinh Xuân L trình bày:

Ngày 17/4/2019 vợ chồng chị Đinh Thị Ả, anh Nguyễn Thế H có vay của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S (sau đây viết tắt là Ngân hàng) tại sổ vay vốn số 4505-LAV-201900837 với số tiền 70.000.000đồng (bảy mươi triệu đồng), với mục đích vay sử dụng cho việc mua keo, chăm sóc và khai thác; thời hạn vay 36 tháng, kể từ ngày 17/4/2019, lãi suất vay 11%/năm, kỳ hạn trả lãi 12 tháng/lần, lãi quá hạn 16,5/năm, hạn trả gốc cuối cùng vào ngày 17/4/2022.

Để làm tin cho khoản vay trên, anh H và chị Ả tự nguyện giao tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922554, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00434 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa số 23, tờ bản đồ số 9, diện tích 305,5m2 loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho bà Đinh Thị N và tại trang 03 giấy chứng nhận đã được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Ngãi - Chi nhánh huyện S xác lập hợp đồng tặng cho giữa bà Đinh Thị N và bà Đinh Thị Ả theo hồ sơ số 000434.CN001 ngày 01/12/2016.

Quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn, kể từ ngày vay đến ngày 20/8/2019 chị Ả và anh H đã thanh toán tiền lãi với số tiền 2.636.986 đồng, sau đó không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận mà vi phạm nghĩa vụ trả nợ lãi và nợ gốc. Nhiều lần, đại diện Ngân hàng đã đến gặp trực tiếp làm việc yêu cầu chị Ả và anh H thanh toán khoản nợ lãi và nợ gốc cho Ngân hàng nhưng chị Ả và anh H hứa hẹn mà không trả, đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương. Nay, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị Ả và anh H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng tính đến ngày 03/8/2022 với tổng số tiền là 94.861.507đồng (Chín mươi bốn triệu, tám trăm sáu mươi mốt nghìn, năm trăm lẻ bảy đồng), trong đó: Tiền vốn gốc là 70.000.000đồng; tiền lãi trong hạn 22.498.767đồng và tiền lãi quá hạn là 2.362.740đồng. Đồng thời, buộc chị Ả và anh H phải tiếp tục thanh toán số tiền nợ lãi tính theo lãi suất quy định tại sổ vay vốn số 4505LAV201900837 ngày 17/4/2019, kể từ ngày 04/8/2022 cho đến khi thanh toán xong toàn bộ các khoản nợ cho Ngân hàng.

Sau khi thanh toán xong các khoản nợ, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S, sẽ hoàn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ngân hàng đang tạm giữ cho chị Ả và anh H.

Bị đơn chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H: Trong quá trình Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án đã tiến hành tống đạt các thủ tục tố tụng nhưng chị Ả và anh H luôn vắng mặt tại địa phương nơi cư trú, không rõ thời điểm trở về, không có người thân ký nhận văn bản tố tụng. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết hợp lệ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng chị Ả và anh H vẫn không đến Tòa án nên không có lời khai, đồng thời không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh hoặc có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S tham gia phiên tòa:

- Quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70 và 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định, bỏ đi khỏi địa phương nơi cư trú, mặc dù đã được Tòa án niêm yết các thủ tục tố tụng hợp lệ, đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt chị Ả, anh H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 157; Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 351, Điều 463; Điều 466; Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng buộc vợ chồng chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H có nghĩa vụ thanh toán tổng số tiền tính đến ngày 03/8/2022 là 94.861.507đồng (Chín mươi bốn triệu, tám trăm sáu mươi mốt nghìn, năm trăm lẻ bảy đồng), trong đó: (tiền gốc là 70.000.000đồng; tiền lãi trong hạn 22.498.767đồng; tiền lãi quá hạn 2.362.740đồng, đồng thời chị Ả, anh H phải tiếp tục thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 04/8/2022 cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ cho Ngân hàng.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H có hộ khẩu thường trú tại Thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi hiện là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử xét miễn án phí cho bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi khởi kiện buộc chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền vay theo hợp đồng vay vốn đã ký xác lập ngày 17/4/2019 tại sổ vay vốn 4505LAV201900837. Qua xem xét tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy Ngân hàng là tổ chức tín dụng (bên cho vay), chị Ả và anh H là cá nhân có nhu cầu vay vốn (bên vay) để sử dụng vào mục đích mua keo, chăm sóc và khai thác nhằm phát triển kinh tế gia đình, do đó, xác định đây là quan hệ tranh chấp dân sự về “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quy định tại khoản 3 Điều 26, của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện S, tỉnh Quảng Ngãi khởi kiện đối với bị đơn chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H có hộ khẩu thường trú tại huyện S, tỉnh Quảng Ngãi nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Quảng Ngãi theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn chị Ả và anh H, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng chị Ả, anh H vắng mặt tại địa phương, không có người thân thích ký nhận văn bản tố tụng, không rõ thời điểm trở về. Tại biên bản xác minh ngày 18/02/2022, Công an xã SL xác định chị Ả, anh H hiện vẫn đang có hộ khẩu thường trú tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi nhưng hiện không có mặt tại địa phương, không rõ thời điểm trở về. Do đó, Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ, đầy đủ được quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng chị Ả, anh H vẫn không đến Tòa án làm việc, không cung cấp tài liệu chứng cứ để chứng minh theo quy định tại khoản 4 Điều 91 luật Tố tụng dân sự. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[4]. Xét nội dung vụ án:

- Sau khi xem xét tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, vào ngày 17/4/2019 vợ chồng chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H có vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S (gọi tắt là Ngân hàng) được ký kết tại sổ vay vốn số 4505- LAV-201900837 với số tiền 70.000.000đồng (bảy mươi triệu đồng), với mục đích vay sử dụng cho việc mua keo, chăm sóc và khai thác; thời hạn vay 36 tháng, lãi suất vay 11%/năm, kỳ hạn trả lãi 12 tháng/lần, lãi quá hạn 16,5/năm, hạn trả gốc cuối cùng vào ngày 17/4/2022.

Để làm tin khoản vay trên, chị Ả và anh H tự nguyện giao nộp tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922554, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00434 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa số 23, tờ bản đồ số 9, diện tích 305,5m2 loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho bà Đinh Thị N và tại trang 03 giấy chứng nhận quyền sử đụng đất có sự thay đổi cơ sở pháp lý và đã được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Ngãi - Chi nhánh huyện S xác lập hợp đồng tặng cho giữa bà Đinh Thị N và bà Đinh Thị Ả theo hồ sơ số 000434.CN001 ngày 01/12/2016. Như vậy, việc giao kết hợp đồng tín dụng giữa các bên là có thật, nội dung thỏa thuận trong hợp đồng là phù hợp theo quy định của pháp luật.

Quá trình thực hiện hợp đồng vay vốn, chị Ả, anh H, đã thanh toán nợ lãi được số tiền 2.636.986đồng, sau đó không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận mà vi phạm nghĩa vụ trả nợ lãi và nợ gốc. Theo đó, để đôn đốc thu hồi nợ, đại diện Ngân hàng đã đến gặp và làm việc trực tiếp rất nhiều lần nhưng chị Ả, anh H vẫn không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận. Do đó, việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu chị Đinh Thị Ả và anh Nguyễn Thế H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng tổng số tiền cả gốc và lãi là có căn cứ, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán số nợ gốc và tiền lãi tính đến ngày 03/8/2022 là 94.861.507đồng (Chín mươi bốn triệu, tám trăm sáu mươi mốt nghìn, năm trăm lẻ bảy đồng), trong đó: (tiền gốc là 70.000.000đồng; tiền lãi trong hạn 22.498.767đồng; lãi quá hạn 2.362.740đồng).

- Đối với yêu cầu của nguyên đơn về lãi suất: Hội đồng xét xử xét thấy nội dung thỏa thuận về lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn giữa Ngân hàng và chị Ả, anh H, theo sổ vay vốn (hợp đồng tín dụng) là phù hợp với quy định của Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay quy định tại Điều 91, Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng; Điều 351, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải có nghĩa vụ thanh toán lãi suất trong hạn, lãi suất quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 03/8/2022, cụ thể: Tiền lãi trong hạn là 22.498.767đồng; tiền lãi quá hạn là 2.362.740đồng. Chị Ả và anh H còn phải tiếp tục chịu tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận tại sổ vay vốn số 4505-LAV-201900837, kể từ ngày 04/8/2022 đến khi tất toán xong toàn bộ khoản nợ cho Ngân hàng.

- Đối với tài sản mà các bên giao nhận để làm tin: Sau khi chị Ả, anh H tất toán xong toàn bộ khoản vay, Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922554, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00434 do Ủy ban nhân dân huyện S cấp ngày 30/6/2014, thửa số 23, tờ bản đồ số 9, diện tích 305,5m2 loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi cho chị Ảvà anh H.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Hoàn trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S tại phiên tòa về nội dung vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận. Về phần án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn có hộ khẩu thường trú tại địa phương là vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ là đối tượng được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, tuy nhiên bị đơn không có đơn đề nghị được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 nên không được chấp nhận.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 157, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 351, Điều 463; Điều 466; Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự; Điều 91 và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S đối với bị đơn chị Đinh Thị Ả, anh Nguyễn Thế H.

- Buộc chị Đinh Thị Ả, anh Nguyễn Thế H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S tổng số tiền tính đến ngày 03/8/2022 là 94.861.507đồng (Chín mươi bốn triệu, tám trăm sáu mươi một nghìn, năm trăm lẽ bảy đồng), trong đó: Tiền gốc là 70.000.000đồng; tiền lãi trong hạn 22.498.767đồng; tiền lãi quá hạn 2.362.740đồng. Chị Đinh Thị Ả, anh Nguyễn Thế H phải chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng số 4505-LAV- 201900837 ký kết ngày 17/4/2019, kể từ ngày 04/8/2022 đến khi thanh toán xong toàn bộ khoản vay cho Ngân hàng.

Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả lại tài sản là một bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BS 922554, vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH00434 do Ủy ban nhân dân huyện Sơn Hà cấp ngày 30/6/2014, thửa số 23, tờ bản đồ số 9, diện tích 305,5m2 loại đất ở tại nông thôn, địa chỉ thửa đất tại thôn LG, xã SL, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi ngay sau khi chị Ả, anh H thanh toán xong toàn bộ khoản nợ vay cho Ngân hàng.

- Về án phí: Chị Đinh Thị Ả, anh Nguyễn Thế H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 4.743.000 đồng (Bốn triệu, bảy trăm bốn mươi ba nghìn đồng). Hoàn trả lại cho Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh huyện S số tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 2.189.000 đồng (Hai triệu, một trăm tám mươi chín nghìn đồng) theo biên lai thu tiền án phí, lệ phí, Tòa án số 0000742 ngày 28/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện S.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất do các bên thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng (sổ vay vốn) số 4505- LAV-201900837 ngày 17/4/2019.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 02/2022/DS-ST

Số hiệu:02/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;