Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 67/2022/DS-ST

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 67/2022/DS-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG

Trong ngày 28 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 218/2021/TLST-DS ngày 17 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 276/2022/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 770/2022/QĐST-DS ngày 09 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần A.

Địa chỉ trụ sở: Số B đường N, Phường T, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lã Ngọc M, sinh năm 1970, địa chỉ: Phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 188/2021/UQ-TTT ngày 26 tháng 3 năm 2021) (Có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1962 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Đường Đinh Tiên Hoàng, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 26 tháng 3 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn là ông Lã Ngọc M trình bày:

Ngày 22 tháng 10 năm 2008, nguyên đơn Ngân hàng TMCP A và bị đơn ông Nguyễn Văn H ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiệt phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng). Căn cứ vào thu nhập của bị đơn, nguyên đơn đã đồng ý cấp thẻ tín dụng Visa số thẻ 472074-6020, hạn mức sử dụng là 12.000.000 đồng với mục đích tiêu dùng cá nhân.

Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 65.401.199 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay, bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn số tiền là 73.875.000 đồng.

Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bị đơn vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Điều 2 của Bản điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, ngày 01 tháng 05 năm 2014, nguyên đơn đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn thanh toán tổng số tiền tạm tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2022 là 57.796.498 đồng, gồm: Nợ gốc 14.077.261 đồng; lãi quá hạn từ ngày 01 tháng 5 năm 2014 đến ngày 28 tháng 3 năm 2022 với mức lãi suất quá hạn 3,225%/tháng (bằng 150% lãi suất trong hạn: 2,15%/tháng x 150%) là 43.719.237 đồng. Bị đơn còn phải thanh toán tiền lãi phát sinh từ ngày 29 tháng 3 năm 2022 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng.

Bị đơn vắng mặt không có lời trình bày.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật. Về nội dung giải quyết vụ án, sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng với bị đơn ông Nguyễn Văn H có địa chỉ cư trú tại đường Đinh Tiên Hoàng, phường Đa Kao, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Bị đơn mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do, không xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quan điểm của mình, cũng như không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, bị đơn phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ được quy định tại Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử giải quyết vụ án dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ.

[4] Về nội dung: Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán nợ gốc 14.077.261 đồng, Hội đồng xét xử thấy:

[5] Căn cứ Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 22 tháng 10 năm 2008, Điều kiện và điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng có hiệu lực từ ngày 25 tháng 8 năm 2008, bảng sao kê tín dụng, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định nguyên đơn đã cấp thẻ tín dụng Visa số thẻ 472074-6020 cho bị đơn với hạn mức sử dụng là 12.000.000 đồng, mục đích tiêu dùng cá nhân.

[6] Trong quá trình sử dụng thẻ, bị đơn đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 65.401.199 đồng và đã thanh toán được cho nguyên đơn số tiền 73.875.000 đồng, nhưng sau đó bị đơn không thanh toán nữa. Nguyên đơn đều thông báo chi tiết nợ gốc, khoản lãi phát sinh, thời hạn thanh toán cho bị đơn và bị đơn không khiếu nại về vấn đề này. Tuy nhiên, cho đến nay bị đơn vẫn chưa thanh toán cho nguyên đơn nợ gốc và lãi. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngày 01 tháng 05 năm 2014, nguyên đơn đã chuyển toàn bộ số nợ còn thiếu sang nợ quá hạn là đúng theo thỏa thuận của hợp đồng và phù hợp quy định tại Điều 49, khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 được sửa đổi bổ sung năm 2004; Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, nên Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán nợ gốc là 14.077.261 đồng.

[7] Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán nợ lãi quá hạn từ ngày 01 tháng 05 năm 2014 đến ngày 28 tháng 3 năm 2022 là 43.719.237 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 29 tháng 3 năm 2022 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất quy định tại hợp đồng tín dụng, Hội đồng xét xử thấy:

[8] Căn cứ Thông báo số 113/TB-TTT ngày 04 tháng 7 năm 2011, mức lãi suất cũ: 2,05%/tháng, lãi suất mới: 2,15%/tháng, lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn: 2,15%/tháng x 150% = 3,225%/tháng, áp dụng kể từ ngày 06 tháng 7 năm 2011 đối với tất cả thẻ tín dụng quốc tế nguyên đơn phát hành cho khách hàng.

[9] Theo quy định tại khoản 14 Điều 4 và khoản 2 Điều 91 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận thì tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức theo quy định của pháp luật. Mức lãi suất của nguyên đơn thỏa thuận với bị đơn phù hợp với các quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán lãi quá hạn từ ngày 01 tháng 05 năm 2014 đến ngày 28 tháng 3 năm 2022 là 43.719.237 đồng. Bị đơn còn phải chịu tiền lãi phát sinh trên nợ gốc từ ngày 29 tháng 3 năm 2022 cho đến khi thanh toán hết nợ theo Điều 22 và Điều 23 của Điều kiện và điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng có hiệu lực từ ngày 25 tháng 8 năm 2008.

[10] Về án phí: Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.889.825 đồng theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 10 Điều 20, Điều 49, khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 được sửa đổi bổ sung năm 2004; khoản 14 Điều 4, khoản 2 Điều 91 và khoản 1 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010; Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14 tháng 4 năm 2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận; điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần A.

Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn H có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A tổng số tiền tính đến ngày 28 tháng 3 năm 2022 là 57.796.498 (Năm mươi bảy triệu, bảy trăm chín mươi sáu ngàn, bốn trăm chín mươi tám) đồng, gồm: Nợ gốc là 14.077.261 (Mười bốn triệu, không trăm bảy mươi bảy ngàn, hai trăm sáu mươi mốt) đồng, lãi quá hạn là 43.719.237 (Bốn mươi ba triệu, bảy trăm mười chín ngàn, hai trăm ba mươi bảy) đồng của thẻ tín dụng Visa số 472074-6020.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.889.825 (Hai triệu, tám trăm tám mươi chín ngàn, tám trăm hai mươi lăm) đồng.

Ngân hàng Thương mại Cổ phần A không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần A tiền tạm ứng án phí dân sự đã nộp là 1.286.016 (Một triệu, hai trăm tám mươi sáu ngàn, không trăm mười sáu) đồng theo biên lai số AA/2019/0030813 ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

Kể từ ngày 29 tháng 3 năm 2022 cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 22 tháng 10 năm 2008, bản điều kiện và điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng có hiệu lực từ ngày 25 tháng 8 năm 2008 nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, Điều 7, 7a, 7b, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 67/2022/DS-ST

Số hiệu:67/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;