TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 47/2022/DSST NGÀY 15/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG
Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Đống Đa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 122/2021/DSST ngày 02.11.2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 18/2022/QĐXX-ST ngày 16 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 47/2022/QĐHPT ngày 16 tháng 3 năm 2022:
* Nguyên đơn: Ngân hàng S Trụ sở: Số A, phường 8, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh - Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D -Tổng giám đốc.
- Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nghiêm Mạnh T và bà Nguyễn Thị L (Văn bản ủy quyền ngày 02.4.2021). Vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa.
* Bị đơn: Chị Lê Hồng H, sinh năm 1992 Hộ khẩu thường trú: Số B tổ C, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là Ngân hàng S do Bà Nguyễn Thị L trình bày:
Ngày 19.8.2016, chị Lê Hồng H đã ký với Ngân hàng S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng, Bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng - các tài liệu này được gọi chung là Hợp đồng). Căn cứ thu nhập của chị Lê Hồng H, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là: 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp Thẻ tín dụng, chị Lê Hồng H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 91.071.774 đồng (Chín mươi mốt triệu, không trăm bảy mươi mốt nghìn, bảy trăm bảy mươi tư nghìn đồng), phát sinh lãi là: 48.177.733 đồng (Bốn mươi tám triệu, một trăm bảy mươi bảy nghìn, bảy trăm ba mươi ba đồng), phí trả quá hạn là 1.172.527 đồng (Một triệu, một trăm bảy mươi hai nghìn, năm trăm hai mươi bảy đồng), phí thường niên và phí vượt hạn mức là 698.000 đồng (Sáu trăm chín mươi tám nghìn đồng).
Trong quá trình sử dụng thẻ, chị Lê Hồng H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 68.676.798 đồng (Sáu mươi tám triệu, sáu trăm bảy mươi sáu nghìn, bảy trăm chín mươi tám đồng). Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng chị Lê Hồng H vẫn không có thiện trí trả nợ. Do chị Lê Hồng H vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, ngày 31.7.2018 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn theo Điều 23 của Bản điều khoản, điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng.
Tính đến ngày 15.4.2022 chị Lê Hồng H còn nợ Ngân hàng các khoản sau:
- Nợ gốc: 32.650.561 đồng - Lãi quá hạn: 55.260.802 đồng Tổng cộng: 87.911.363 đồng Nay Ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết buộc chị Lê Hồng H phải:
- Thanh toán cho Ngân hàng số tiền còn nợ tính đến ngày 15.4.2022 là: 87.911.363 đồng.
- Chị Lê Hồng H có trách nhiệm phải thanh toán khoản lãi phát sinh sau ngày 15.4.2022 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại Hợp đồng.
Ngoài những nội dung trên Ngân hàng không yêu cầu giải quyết vấn đề gì khác.
Tại phiên tòa:
* Đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và giữ nguyên ý kiến như đã trình bày.
* Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt tại phiên tòa.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa có quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định cho chị Lê Hồng H tuy nhiên chị H đều vắng mặt không có lý do, đại diện nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt do vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
- Về nội dung: Sau khi phân tích vụ án đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Đống Đa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng và buộc chị Lê Hồng H phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền còn nợ tính đến ngày 15.4.2022 là: 87.911.363 đồng, trong đó: Nợ gốc là 32.650.561 đồng, lãi quá hạn là 55.260.802 đồng và khoản lãi phát sinh sau ngày 28.01.2022 cho đến khi thanh toán hết nợ gốc theo lãi suất quy định tại Hợp đồng đã ký. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
1.1. Thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật:
Ngân hàng S khởi kiện yêu cầu chị Lê Hồng H, sinh năm 1992, hộ khẩu thường trú: Số B, tổ C, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội thanh toán nợ gốc và lãi theo Hợp đồng tín dụng đã ký nên quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Đống Đa theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
1.2. Thời hiệu khởi kiện và áp dụng pháp luật: Ngày 19.8.2016 chị Lê Hồng H ký hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng với Ngân hàng, thời hạn sử dụng thẻ là 3 năm từ ngày phát hành thẻ. Do chị Lê Hồng H vi phạm nghĩa vụ thanh toán, ngày 31.7.2018, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Ngày 14.4.2021 Tòa án nhân dân quận Đống Đa nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng đối với chị Lê Hồng H, căn cứ Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án này không thuộc trường hợp phải áp dụng thời hiệu khởi kiện.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho chị Lê Hồng H theo quy định của pháp luật nhưng chị H đều vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ 2 do vậy Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về nội dung:
2.1. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Ngày 19.8.2016, chị Lê Hồng H đã ký với Ngân hàng Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, chị Hồng H được cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là: 30.000.000 đồng, mục đích tiêu dùng cá nhân. Hội đồng xét xử nhận thấy Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 19.8.2016 được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện và phù hợp với các quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và Bộ luật Dân sự. Do đó xác định đây là hợp đồng hợp pháp có hiệu lực thi hành đối với các bên.
Quá trình thực hiện chị Hồng H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Điều 18, Điều 19 của Hợp đồng vì vậy ngày 31.7.2018 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của chị Hồng H. Nay Ngân hàng khởi kiện buộc chị Hồng H phải thanh toán số tiền dư nợ gốc là 32.650.561 đồng (Ba mươi hai triệu, sáu trăm năm mươi nghìn, năm trăm sáu mươi mốt đồng) là phù hợp quy định của pháp luật nên được chấp nhận.
Đối với yêu cầu tính lãi suất quá hạn của Ngân hàng S, Hội đồng xét xử xét thấy:
Theo Điều 22 của Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng S có quy định về lãi suất như sau:
- “...a) Đối với giao dịch mua hàng hóa (không áp dụng với Thẻ tín dụng Family), phí, lệ phí và tất cả những khoản nợ khác trên Tài khoản (ngoại trừ giao dịch rút tiền mặt) nếu chủ thẻ không thanh toán toàn bộ số tiền đến hạn đầy đủ và đúng hạn vào hoặc trước ngày đến hạn, chủ thẻ phải thanh toán lãi cho đơn vị phát hành thẻ đối với tất cả các khoản nợ được thể hiện trong Thông báo giao dịch hiện tại và đối với bất kỳ khoản nợ nào phát sinh sau đó trong tài khoản cho đến khi toàn bộ các khoản nợ đến hạn ghi trong Thông báo giao dịch mới nhất được thanh toán vào hoặc trước ngày đến hạn. Lãi suất được tính từ ngày giao dịch cho đến ngày việc thanh toán được thực hiện đầy đủ.
....
b) Đối với giao dịch rút tiền mặt và giao dịch tương đương rút tiền mặt: lãi được tính từ ngày giao dịch cho đến hết ngày chủ thẻ thanh toán lại toàn bộ số tiền đã rút.
Việc thanh toán đối với các khoản dư nợ trên tài khoản được thực hiện theo thứ tự được quy định tại Mục 20. Đơn vị phát hành thẻ có quyền sửa đổi mức lãi suất trong từng thời kỳ theo quyết định của mình mà không cần thông báo trước cho chủ thẻ”.
Do chị Hồng H vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên kể từ ngày 31.7.2018 Ngân hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ gốc còn thiếu sang quá hạn. Nay Ngân hàng yêu cầu chị Hồng H phải thanh toán số tiền lãi suất nợ quá hạn tính đến ngày 15.4.2022 là 55.260.802 đồng (Năm mươi lăm triệu, hai trăm sáu mươi nghìn, tám trăm linh hai đồng) là đúng quy định tại Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng nên được chấp nhận.
2.2. Về án phí :
- Ngân hàng S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn lại số tiền 1.811.080 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0069223 ngày 01.11.2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
- Chị Lê Hồng H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.
Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự 2015;
- Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 70, Điều 72, Điều 147, Điều 184, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án;
- Luật Thi hành án dân sự.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng S đối với chị Lê Hồng H.
2. Buộc chị Lê Hồng H phải thanh toán số tiền còn nợ cho Ngân hàng S theo Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng ngày 19.8.2016 và Điều khoản và điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tính đến ngày 15.4.2022 là: 87.911.363 đồng (Tám mươi bảy triệu, chín trăm mười một nghìn, ba trăm sáu mươi ba đồng), trong đó: Nợ gốc: 32.650.561 đồng, nợ lãi quá hạn: 55.260.802 đồng.
Kể từ ngày kế tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, chị Lê Hồng H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại các Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về án phí:
- Ngân hàng S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được hoàn lại số tiền 1.811.080 đồng (Một triệu, tám trăm mười một nghìn, không trăm tám mươi đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0069223 ngày 01.11.2021 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đống Đa.
- Chị Lê Hồng H phải chịu 4.395.568 đồng (Bốn triệu, ba trăm chín mươi lăm nghìn, năm trăm sáu mươi tám đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng số 47/2022/DSST
Số hiệu: | 47/2022/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về