Bản án 08/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUN NINH KIỀU, THÀNH PH CN THƠ

BẢN ÁN 08/2023/KDTM-ST NGÀY 05/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 02/2022/TLST-KDTM, ngày 13 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp Hợp đồng đặt cọc. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 209/2023/QĐXXST-KDTM ngày 27/3/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 74/2023/QĐST-KDTM, ngày 17/4/2023, các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Cổ phần G Địa chỉ: Tầng A, số A, đường Y, phường P, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà P - Chức vụ: Giám đốc Người đại diện theo ủy quyền:

1. Ông Nguyễn Văn L

2. Bà Hồ Thị Diễm T Địa chỉ: A T, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ. (Văn bản ủy quyền ngày 01/7/2021)

Bị đơn: Công ty CP Đ Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Hồng S, Chức vụ: Tổng giám đốc.

Địa chỉ: Số A X, KDC C H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Đoàn Hồng S Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Tháp.

(Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt; bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện để ngày 01/7/2021 của nguyên đơn và trong quá trình giải quyết vụ kiện, nguyên đơn trình bày như sau: Trước đây, Công ty Cổ phần Đ (sau đây gọi là Công ty Đ) triển khai một dự án về điện năng lượng mặt trời tại Kiên Giang và đề nghị hợp tác với Công ty Cổ phần G (sau đây gọi là Công ty G) làm nhà thầu thi công. Công ty Đ đã cung cấp cho Công ty G các thông tin, hồ sơ về dự án và đề nghị Công ty G phải đặt cọc trước 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) để đảm bảo ký kết hợp đồng lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời cho Công ty Đ tại Kiên Giang.

Công ty G đã đồng ý với đề nghị trên và đặt cọc số tiền trên cho Công ty Đ để các bên tiến tới ký kết hợp đồng thực hiện dự án. Ngày 13/03/2021, Công ty G đã bàn giao số tiền 200.000.000 đồng cho Công ty Đ (theo Biên nhận ngày 13/03/2021, do ông Đoàn Hồng S lúc đó là giám đốc Công ty Đ ký nhận).

Sau khi nhận tiền đặt cọc, Công ty G đã nhiều lần liên hệ Công ty Đ để trao đổi về việc ký hợp đồng như đã thống nhất nhưng Công ty Đ đưa ra nhiều lý do cố tình trì hoãn việc ký kết hợp đồng giữa các bên.

Công ty G liên hệ yêu cầu Công ty Đ phải có trách nhiệm hoàn lại số tiền đã nhận trước đây và lãi phát sinh nhưng phía Công ty Đ không hợp tác, trốn tránh nghĩa vụ đối với Công ty G.

Công ty Cổ phần G có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án Nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xem xét, giải quyết:

- Buộc Công ty Cổ phần Đ phải trả lại cho Công ty Cổ phần G số tiền đã đặt cọc theo Biên nhận ngày 13/3/2021 là 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

- Buộc Công ty Cổ phần Đ có trách nhiệm trả lãi cho Công ty Cổ phần G trên số tiền còn nợ do chậm thanh toán tính từ ngày 13/3/2021 đến ngày khởi kiện (ngày 28/6/2021) với mức lãi suất là 1.67%/tháng là 11.912.667 đồng (Mười một triệu chín trăm mười hai nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng); Đồng thời, buộc Công ty Cổ phần Đ tiếp tục trả lãi từ ngày 28/06/2021 đến khi xét xử sơ thẩm mới mức lãi suất là: 1.67%/tháng.

Quá trình giải quyết, nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện:

- Tại đơn khởi kiện bổ sung ngày 14/02/2023, nguyên đơn yêu cầu: Buộc Công ty Cổ phần Đ và ông Đoàn Hồng s có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty Cổ phần G số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán kể từ ngày 13/3/2021 đến ngày khởi kiện là 11.912.667 đồng ( lãi suất 1,67%/tháng) và phải tiếp tục trả lãi từ ngày 28/6/2021 cho đến khi xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 1,67%/tháng.

- Tại văn bản tự khai bổ sung, ngày 04/5/2023, đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, về lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Yêu cầu tòa án tuyên buộc bị đơn và ông Đoàn Hồng S có trách nhiệm liên đới trả lãi suất là 1.67%/tháng, đối với số tiền đã nhận 200.000.000 đồng; thời gian kể từ ngày 13/3/2021 đến ngày khởi kiện 01/7/2021 là 11.820.000 đồng; và bị đơn phải tiếp tục trả lãi đến khi xét xử từ 02/7/2023 đến ngày 5/5/2023 là 73.780.000 đồng; tổng số tiền lãi là 85.600.000 đồng; tổng số tiền yêu cầu bị đơn và ông S phải trả là 285.600.000 đồng;

- Bị đơn là Công ty Cổ phần Đ và ông Đoàn Hồng S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để giải quyết vụ kiện nhưng vắng mặt và cũng không có văn bản thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Do đó, căn cứ Điều 207 Bộ luật Tố Tụng Dân sự, vụ kiện thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được.

Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều tiến hành đưa vụ án ra xét xử.

Vụ án được xét xử công khai.

Tại phiên tòa:

- Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có yêu cầu giải quyết văng mặt, và có văn bản trình bày ý kiến như trên.

- Bị đơn Công ty Cổ phần Đ và ông Đoàn Hồng S vắng mặt không lý do cũng như không có văn bản phản hồi, nên không rõ ý kiến.

Tòa án căn cứ vào Điều 238 của Bộ luật tố tụng Dân sự, xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

Chủ tọa công bố lý do vắng mặt và đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt của đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn; Công bố tóm tắt nội dung vụ án, lời trình bày của các bên; Công bố các chứng cứ do đương sự cung cấp và chứng cứ do tòa án thu thập.

Hội đồng xét xử thảo luận về các vấn đề của vụ án;

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Tòa án xác định quan hệ tranh chấp “Tranh chấp Hợp đồng đặt cọc” là đúng. Và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều.

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đủ các quy định của Điều 26 về thẩm quyền giải quyết vụ án, Điều 68 về tư cách tham gia tố tụng; từ Điều 93 đến Điều 97, Điều 195, Điều 196 Bộ luật TTDS về trình tự thụ lý, việc giao nhận thông báo thụ lý cho VKS và đương sự. Vụ án chưa đảm bảo về thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 203 BLTTDS Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo luật định.

Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật TTDS. Tuy nhiên bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ do các đương sự cung cấp, chứng cứ do Tòa án đã thu thập và lời trình bày của đương sự.

Kiểm sát viên đề nghị:

- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc ông Đoàn Hồng S phải trả 200.000.000 đồng và trả lãi chậm thanh toán tương ứng với mức lãi suất 10% năm tính từ ngày 13/01/2022 đến ngày xét xử sơ thẩm cho Công ty Cổ phần G.

- Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu Công ty Cổ phần Đ liên đới trả 200.000.000 đồng và lãi suất phát sinh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Căn cứ lời trình bày về mục đích giao dịch giữa nguyên đơn và bị đơn, căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; địa chỉ trụ sở của bị đơn; Tòa án xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn có yêu cầu giải quyết vắng mặt; Bị đơn và ông Đoàn Hồng S đã được tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định, nhưng vẫn liên tục vắng mặt không lý do và không có ý kiến phản hồi. Vì vậy căn cứ Điều 227 và 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì bị đơn Công ty Cổ phần Đ và ông Đoàn Hồng S đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình qua việc không đến tòa án tham gia tố tụng, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc phản bác hay chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại các Điều 6; Điều 24; Điều 91 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

2.1 Đối với yêu cầu buộc Công ty Cổ phần Đ có trách nhiệm liên đới cùng ông Đoàn Hồng S trả cho nguyên đơn số tiền 200.000.000 đồng và lãi suất.

+ Về yêu cầu buộc Công ty Cổ phần Đ có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền 200.000.000 đồng và lãi suất.

Căn cứ vào lời trình bày của đại diện nguyên đơn, các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và chứng cứ đã thu thập được Hội đồng xét xử thấy rằng:

Nguyên đơn trình bày ngày 13/3/2021, nguyên đơn đặt cọc số tiền 200.000.000 đồng cho Công ty Đ để hợp tác triển khai một dự án về điện năng lượng mặt trời tại Kiên Giang. Hiện nay công ty Đ đã ngừng hoạt động và dự án không được triển khai thực hiện nên nguyên đơn yêu cầu trả lại số tiền 200.000.000 đồng đã nhận. Tại Biên nhận đề ngày 13/3/2021, do nguyên đơn cung cấp, thể hiện người nhận tiền là ông Đoàn Hồng S, ghi trong biên nhận với chức vụ Tổng giám đốc Công Ty CP Đ, nhận 200.000.000 đồng tiền cọc làm dự án của nguyên đơn.

Theo Công văn 1066 ngày 28/1/2022 của Sở K, trả lời Công văn 62 ngày 20/01/2022 của Tòa án, thì thời điểm ông s nhận tiền ngày 13/3/2021, người đại diện theo pháp luật, chức danh Tổng giám đốc của công ty Đ là ông Trần Văn T1 không phải là ông Đoàn Hồng S, đến 07/4/2021 ông Đoàn Hồng S mới được bổ nhiệm chức danh Tổng giám đốc.

Tại biên nhận ngày 13/3/2021, chỉ thể hiện chữ ký của ông S, không đóng dấu công ty Đ.

Nguyên đơn cho rằng giữa hai công ty có thỏa thuận đặt cọc số tiền 200.000.000 đồng để làm dự án điện năng lượng mặt trời, nhưng không cung cấp chứng cứ hai công ty T3 hợp tác làm dự án.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ cho rằng công ty Đ đã nhận số tiền đặt cọc 200.000.000 đồng của nguyên đem. Vì vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu buộc Công ty Cổ phần Đ trả số tiền 200.000.000 đồng và lãi suất là không có căn cứ chấp nhận.

+ Về yêu cầu buộc ông Đoàn Hồng s phải trả tiền đặt cọc: Biên nhận 13/3/2021 thể hiện ông s đã nhận 200.000.000 đồng của ông Bùi Ngọc T2 chức danh là Phó Giám đốc Công ty Cổ phần G, biên nhận có chữ ký của ông S, nên việc ông s nhận 200.000.000 đồng của nguyên đơn là có thật. Nguyên đơn yêu cầu buộc ông S phải trả 200.000.000 đồng cho là có căn cứ chấp nhận.

2.2 Đối với yêu cầu về lãi suất chậm trả:

Nguyên đơn yêu cầu Công ty cả phần Đ và ông Đoàn Hồng S có trách nhiệm trả lãi với mức lãi suất 1,67%/tháng kể từ ngày 13/3/2021 (ngày nhận tiền) cho đến ngày xét xử 05/5/2023 số tiền 85.600.000 đồng.

Do Công ty Cổ phần Đ không có trách nhiệm phải liên đới cùng ông S trả lại số tiền 200.000.000 đồng cho nguyên đơn, nên không xem xét đến trách nhiệm trả phần lãi suất phát sinh.

Đối với yêu cầu trả lãi của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tại Biên nhận nhận tiền ngày 13/3/2021, xác định đây là tiền cọc làm dự án. Không có ghi nhận lãi suất, cũng như biên nhận không thể hiện thời gian ký hợp đồng và thời gian triển khai dự án. Không thỏa thuận việc phạt cọc khi các bên vi phạm. Nên nguyên đơn yêu cầu buộc trả lãi tính từ ngày 13/3/2021 cho đến khi xét xử sơ thẩm là chưa đúng.

Thời gian tính lãi suất chậm trả được xác định lại như sau: Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và được Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều thụ lý ngày 13/01/2022. Có căn cứ xác định ngày 13/01/2022 là ngày ông S biết được việc nguyên đơn yêu cầu trả lại số tiền trên nhưng ông không thực hiện. Vì vậy ông S có trách nhiệm trả lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ kể từ ngày 13/01/2022 đến ngày xét xử.

Về mức lãi suất, nguyên đơn yêu cầu 1,67%/tháng cho đến khi khi xét xử sơ thẩm là chưa phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

Hội đồng xét xử căn cứ theo Điều 357 và khoản 2 Điều 468 BLDS 2015 xác định lãi suất chậm thanh toán là 10%/năm đối với số tiền 200.000.000 đồng.

Như vậy lãi suất chậm thanh toán ông S phải trả cho nguyên đơn kể từ ngày 13/01/2022 đến ngày xét xử 05/5/2023, theo mức 10%/năm là 26.394.000 đồng.

[3] Về án phí sơ thẩm và các chi phí khác:

+ Ông Đoàn Hồng s phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho nguyên đơn.

+ Các chi phí khác:

- Chi phí đăng thông báo theo theo phiếu thu ngày 29/3/2023 của B, Cơ Quan Đại Diện Tại Đồng Bằng Sông C là 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng);

+ Chi phí đăng thông báo trên kênh V, theo Hóa đơn giá trị gia tăng ngày 14/4/2023 của Trung Tâm T4, Khu V T là 1.980.000 đồng (một triệu chín trăm tám mươi nghìn đồng);

Nguyên đơn đã tạm ứng trước số tiền này nên ông Đoàn Hồng S có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn + Nguyên đơn phải chịu án phí cho yêu cầu về số tiền lãi suất chậm trả không được chấp nhận là 59.206.000 đồng.

[4] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định.

[5] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân thủ, chấp hành theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự cũng như thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điều 6; Điều 24; Khoản 3 Điều 26; Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 180; Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 328, Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Khoản 1 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Q;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần G đối với ông Đoàn Hồng S.

Tuyên bố:

- Buộc ông Đoàn Hồng S phải trả cho nguyên đơn Công ty Cổ phần G tổng số tiền là 226.394.000 đồng (hai trăm hai mươi sáu triệu ba trăm chín mươi bốn nghìn đồng), trong đó:

- Tiền gốc là 200.000.000 (hai trăm triệu đồng) - Lãi suất phát sinh do chậm thanh toán là 26.394.000 đồng (hai mươi sáu triệu ba trăm chín mươi bốn nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án), hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu buộc Công ty Cổ phần Đ liên đới với ông Đoàn Hồng S trả lại số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) và lãi suất phát sinh.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với số tiền lãi suất chậm thanh toán là 59.206.000 (năm mươi chín triệu hai trăm lẻ sáu nghìn đồng).

3. Án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

- Ông Đoàn Hồng S phải chịu 11.319.700 đồng (mười một triệu ba trăm mười chín nghìn bảy trăm đồng).

- Ông Đoàn Hồng S có nghĩa vụ hoàn trả cho nguyên đơn tổng số tiền 3.480.000 đồng chi phí khác mà nguyên đơn đã tạm ứng trước.

- Công ty Cổ phần G phải chịu 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Nguyên đơn được khấu trừ trong số tiền 5.609.500 (năm triệu sáu trăm lẻ chín nghìn năm trăm đồng) đã tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án ngày 22/10/2021 của Chi cục thi hành án quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Nguyên đơn được nhận lại 2.609.500 (hai triệu sáu trăm lẻ chín nghìn năm trăm đồng);

4. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 08/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

Số hiệu:08/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 05/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;