Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và nợ hụi số 121/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 121/2024/DS-ST NGÀY 25/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VAY TÀI SẢN VÀ NỢ HỤI

Ngày 25 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 284/2024/TLST-DS ngày 16 tháng 7 năm 2024 về “Tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản và nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2024/QĐXXST-DS, ngày 09 tháng 9 năm 2024 giữa:

1/ Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1967 (có mặt). Địa chỉ: Tổ A, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Hồng H1, sinh năm 1969 (vắng mặt).

Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

2/ Bị đơn: Bà Trần Thị Trà G, sinh năm 1972 (có đơn xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ A, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những lời khai tại Tòa án nguyên đơn bà Huỳnh Thị H trình bày: Bà H là chủ hụi, còn bà Trần Thị Trà G là thành viên chơi hụi. Bà G có tham gia chơi hụi của bà H từ năm 2014 đến nay. Bà G tham gia các dây hụi và hiện nay các dây hụi đã mãn, khi giao tiền hụi bà H có làm giấy cho bà G nhận tiền hụi vào ngày 30/11/2014 với số tiền 14.020.000đ và ngày 15/02/2019 với số tiền 23.000.000đ (dây hụi tháng đóng 500.000đ/tháng, hụi khui ngày 10/06/2018, có 30 thành viên tham gia hụi, bà G tham gia 02 phần, bà G đã hốt hai phần hụi và mãn hụi vào ngày 10/12/2020), bà G có ký tên, ghi họ tên vào. Ngoài ra, bà G có vay của bà H số tiền 4.000.000đ vào ngày 15/02/2019 đến nay chưa trả. Sau khi mãn hụi bà G có đóng lại hụi chết được mấy lần và hiện nay còn nợ vay, nợ hụi lại gốc số tiền 24.000.000đ.

Nay bà H yêu cầu bà G trả nợ hụi, nợ vay gốc số tiền 21.700.000đ và yêu cầu tính lãi sau ngày mãn hụi kể từ ngày 11/12/2020 đến ngày xét xử. Tại phiên tòa bà H có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với nợ gốc số tiền 2.300.000đ.

Theo biên bản lấy lời khai và các lời khai tại tòa bị đơn bà Trần Thị Trà G trình bày: Bà G là thành viên chơi hụi, còn bà Huỳnh Thị H là chủ hụi. Bà thừa nhận lời trình bày của bà H về tham gia chơi hụi, ngày hốt hụi là đúng sự thật.

Bà thừa nhận có vay bà H số tiền 4.000.000đ vào ngày 15/02/2019 đến nay chưa trả. Nay bà thừa nhận sau khi hốt hụi thì bà đóng lại hụi chết cho bà H không đầy đủ, mỗi lần hốt hụi bà có ký, ghi họ tên vào giấy ghi hốt hụi cũng như vay tiền của bà H.

Nay bà đồng ý trả nợ hụi, nợ vay gốc số tiền 21.700.000đ và bà G xin trả mỗi tháng 1.000.000đ cho đến khi hết nợ vay cho bà H. Còn việc bà H yêu cầu trả lãi thì bà không đồng ý.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán; Thư ký trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa là đúng trình tự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bà Trần Thị Trà G trả nợ vay, nợ hụi gốc là 21.700.000đ cùng với lãi suất kể từ ngày 11/12/2020 (sau ngày mãn hụi 10/12/2020) theo quy định pháp luật cho Huỳnh Thị H. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về nợ gốc số tiền 2.300.000đ. Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử xem xét án phí dân sự sơ thẩm và các vấn đề khác theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Trần Thị Trà G có đơn xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Bà Huỳnh Thị H và bà Trần Thị Trà G thống nhất không đưa ông Nguyễn Hồng D, sinh năm 1973 (là chồng bà G) vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và thống nhất bà G đứng ra trả nợ vay, nợ hụi một mình cho bà H.

[2] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn bà Trần Thị Trà G có nơi cư trú tại: Tổ A, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Đây là vụ án "Tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản và nợ hụi" được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án: Giữa nguyên đơn và bị đơn có xác lập giao dịch hụi (họ) với nhau, trong đó bà H là chủ hụi, bà G là hụi viên. Phía nguyên đơn đã thực hiện đúng nghĩa vụ giao tiền hụi đầy đủ cho bị đơn nhưng sau khi lĩnh hụi bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình là đóng tiền hụi lại cho chủ hụi và bà G còn thực hiện giao dịch vay tiền của bà H số tiền 4.000.000đ đến nay chưa trả. Nay bà H yêu cầu bà G trả nợ vay, nợ hụi số tiền 21.700.000đ và bà H có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện về nợ gốc số tiền 2.300.000đ.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn bà Huỳnh Thị H yêu cầu bà Trần Thị Trà G trả số tiền nợ hụi, nợ vay là 21.700.000đ và yêu cầu tính lãi theo quy định pháp luật là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, giữa bà H và bà G đều xác nhận có giao dịch dân sự hụi (họ), vay tiền với nhau và tại phiên tòa bà H khai đến nay các dây hụi đã mãn, bà G đã hốt hết các phần hụi nhưng bà thực hiện nghĩa vụ đóng lại hụi chết cho bà H không đầy đủ, bà cũng chưa trả lại số tiền vay cho bà H, hiện còn nợ vay, nợ hụi số tiền 21.700.000đ. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của bà H về yêu cầu bà G phải có nghĩa vụ trả nợ hụi, nợ vay số tiền 21.700.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biểu, phường.

[5] Về lãi suất: Đối với yêu cầu của bà H yêu cầu tính lãi suất theo quy định pháp luật trên số nợ hụi, nợ vay số tiền 21.700.000đ kể từ ngày 11/12/2020 (sau ngày mãn hụi 10/12/2020) đến ngày xét xử là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 466, khoản 3 Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do bà G sau khi nhận đầy đủ tiền hụi nhưng bà G thực hiện đóng lại tiền hụi chết cho bà H không đầy đủ, bà H là chủ hụi phải tự bỏ tiền ra đóng tiền hụi cho các hụi viên khác và bà G sau khi vay tiền cũng chưa trả lại tiền vay cho bà H, việc bà G không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền, đóng tiền hụi đúng hạn nên phải trả lãi trên số tiền chậm trả, các đương sự không có thỏa thuận về mức lãi suất nên áp dụng khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự để xác định mức lãi suất là 10%/năm, cụ thể: Lãi suất tính từ ngày 11/12/2020 đến ngày 25/9/2024 (ngày xét xử) là 45 tháng 14 ngày trên số tiền 21.700.000đ [(45 tháng x 0.83% x 21.700.000đ = 8.104.950đ) + (14 ngày x 0,028% x 21.700.000đ = 85.064đ) = 8.190.014đ]. Như vậy, bà G phải trả tiền lãi cho bà H số tiền 8.190.014đ.

[6] Xét yêu cầu của bà G xin trả dần mỗi tháng 1.000.000đ cho bà H nhưng Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét. Vì phía nguyên đơn không thống nhất và việc xem xét thời gian, điều kiện Thi hành án là thuộc thẩm quyền của Cơ quan thi hành án dân sự.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bà Trần Thị Trà G phải có nghĩa vụ trả nợ vay, nợ hụi gốc lãi số tiền là 29.890.014đ (Trong đó nợ gốc là 21.700.000đ, tiền lãi là 8.190.014đ) cho bà Huỳnh Thị H.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về nợ gốc số tiền 2.300.000đ.

[7] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 1.494.501đ. Bà G bị buộc trả nợ hụi, nợ vay nên phải chịu án phí sơ thẩm. Do bà H được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nên nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Áp dụng: Điều 463, Điều 466, Điều 471, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự và Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biểu, phường. Tuyên xử:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bà Trần Thị Trà G phải có nghĩa vụ trả nợ hụi, nợ vay gốc lãi số tiền là 29.890.014đ (Trong đó nợ gốc là 21.700.000đ, tiền lãi là 8.190.014đ) cho bà Huỳnh Thị H.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên, thì người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về nợ gốc số tiền 2.300.000đ.

2/ Về án phí: Áp dụng Điều 144, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bà Trần Thị Trà G phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 1.494.501đ (Một triệu, bốn trăm chín mươi bốn nghìn, năm trăm lẻ một đồng).

- Hoàn trả lại tạm ứng án phí đã nộp số tiền 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004056 ngày 16/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang cho bà Huỳnh Thị H.

3/ Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (25/9/2024). Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản và nợ hụi số 121/2024/DS-ST

Số hiệu:121/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;