Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự nợ hụi và vay tài sản số 136/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 136/2024/DS-ST NGÀY 15/10/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ NỢ HỤI VÀ VAY TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 243/2024/TLST-DS ngày 17 tháng 5 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự về nợ hụi và vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 135/2024/QĐXXST-DS, ngày 09 tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 49/2024/QĐST-DS ngày 25 tháng 9 năm 2024 giữa:

Nguyên đơn: Ông Huỳnh Kim T, sinh năm 1957 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ A, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Hồng H, sinh năm 1969 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ E, ấp R, xã B, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1976 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ A, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Huỳnh Văn H1, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ A, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

2/ Ông Huỳnh Tấn H2, sinh năm 1999 (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ A, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Huỳnh Kim T: Luật sư Phạm Minh T1, sinh năm 1967 - Văn phòng L thuộc đoàn Luật sư tỉnh K (Vắng mặt).

Địa chỉ liên hệ: Tổ F, khu phố B, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai có trong hồ sơ nguyên đơn ông Huỳnh Kim T và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Mai Hồng H trình bày: Ông T là thành viên chơi hụi, còn bà Nguyễn Thị Tuyết M là chủ hụi. Bà M có khui 02 dây hụi cùng ngày 30/10/2022 đến ngày 30/6/2025 mãn hụi, mỗi dây hụi tháng đóng 3.000.000[đ]/lần, mỗi dây hụi có 32 thành viên chơi hụi, ông tham gia chơi mỗi dây hụi 03 phần hụi, mỗi dây hụi ông đã đóng được 04 lần thì bà M tuyên bố bể hụi, ông đóng hụi cho bà M được số tiền là 144.000.000đồng, sau khi bể hụi đến nay bà M có trả cho ông được số tiền 38.000.000đ và hiện nay ông yêu cầu bà M phải trả lại nợ hụi số tiền 106.000.000đồng.

Ngoài ra, ông có cho bà M vay nhiều lần với số tiền 420.000.000đồng, các lần vay cụ thể: Ngày 09/11/2022 ông có cho bà M vay số tiền 300.000.000đồng, ông là người trực tiếp giao tiền cho bà M, khi đó ông bận công việc phải đi nên có viết biên nhận ghi Huỳnh Tấn H2 là người cho mượn, còn bà M là người mượn tiền; Ngày 19/01/2023 bà M tiếp tục vay thêm của ông số tiền 100.000.000đồng, có làm biên nhận cộng nợ cũ trên thành số tiền 400.000.000đồng và ngày 18/3/2023 bà M tiếp tục vay thêm của ông số tiền 20.000.000đồng, có làm biên nhận.

Nay ông T yêu cầu bà M cùng với ông H1 liên đới trả nợ hụi, nợ vay số tiền 526.000.000đồng và ông không yêu cầu tính lãi suất.

Theo biên bản lấy lời khai và những lời khai tại Tòa bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết M trình bày: Bà M thừa nhận bà là chủ hụi, còn ông Huỳnh Kim T là thành viên chơi hụi. Do những tay em không đóng hụi cho bà nên bà không có khả năng tràn hụi và bị bể hụi, bà thừa nhận ông T tham gia 02 dây hụi, cụ thể: Hai dây hụi khui cùng ngày 30/10/2022 đến ngày 30/6/2025 mãn hụi, mỗi dây hụi tháng đóng 3.000.000[đ]/lần, mỗi dây có 32 thành viên chơi hụi, ông T tham gia chơi mỗi dây 03 phần hụi, ông T đã đóng hụi được mỗi dây 04 lần, khi bà tuyên bố bể hụi thì ông T đóng hụi cho bà được số tiền là 144.000.000đồng. Sau khi bể hụi đến nay bà đã trả cho ông T được 38.000.000đồng, nay bà đồng ý trả lại tiền hụi cho ông T là 106.000.000đồng.

Ngoài ra, bà thừa nhận có vay tiền của ông Huỳnh Kim T nhiều lần với số tiền 420.000.000đồng, bà vay tiền ông T làm 03 lần cụ thể: ngày 09/11/2022 vay số tiền 300.000.000đồng; ngày 19/01/2023 vay số tiền 100.000.000đồng; ngày 18/3/2023 vay số tiền 20.000.000đồng. Hai bên có làm giấy tờ và có thỏa thuận lãi (bằng lời nói), đóng lãi 5.000.000đồng trên số tiền 100.000.000đồng, mỗi tháng bà phải đóng lãi cho ông T là 21.000.000đồng, bà đóng lãi cho ông T từ khi vay cho đến tháng 5/2023 được 06 tháng tiền lãi với số tiền 126.000.000đồng. Khi đóng lãi không có làm giấy tờ, biên nhận, cũng không ai chứng kiến việc bà đóng lãi cho ông T. Nay bà yêu cầu xem xét đến tiền lãi đã đóng cho ông T.

Bà nhớ có 01 giấy vay tiền ghi tên con ông T là Huỳnh Tấn H2 là người cho vay, do ông T ghi và bà cũng không biết lý do. Nhưng thực tế là tiền của ông T, bà cũng chỉ vay tiền của ông T và ông T là người giao tiền trực tiếp cho bà. Bà vay tiền của ông T mục đích cải tạo lại đất để làm vuông tôm nhưng bị thua lỗ và lo trang trải cuộc sống gia đình do chồng, con bị bệnh, ốm đau thường xuyên nên cần tiền mua thuốc men. Hiện nay bà chưa trả nợ gốc số tiền vay cho ông T. Ông T là người giao tiền trực tiếp cho bà, giấy mượn tiền đều do ông T ghi, bà thừa nhận có ký tên, còn ghi họ tên Nguyễn Thị Tuyết M do ông T ghi.

Do hiện nay còn nhiều người nợ tiền hụi bà không đóng lại, gia đình đang gặp khó khăn về kinh tế nên bà xin trả dần mỗi tháng trả số tiền 2.000.000đồng cho ông T cho đến khi hết số nợ hụi, nợ vay số tiền 526.000.000đồng và nay bà yêu cầu xem xét đến tiền lãi đã đóng cho ông T.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bà Nguyễn Thị Tuyết M ông Huỳnh Văn H1 liên đới trả nợ vay, nợ hụi số tiền 526.000.000đồng cho ông Huỳnh Kim T và ông T không yêu cầu tính lãi nên miễn xét. Ngoài ra đề nghị xem xét đến án phí và các vấn đề khác liên quan đến vụ kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Huỳnh Tấn H2 có đơn xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Văn H1 vắng mặt. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật giải quyết: Bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết M có nơi cư trú tại: Tổ A, ấp C, xã H, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Đây là vụ án "Tranh chấp hợp đồng dân sự về nợ hụi và vay tài sản" được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung vụ án: Giữa ông T, bà M có thực hiện giao dịch dân sự về hụi, vay tài sản, ông Huỳnh Kim T là thành viên chơi hụi, còn bà Nguyễn Thị Tuyết M là chủ hụi. Bà M có khui 02 dây hụi cùng ngày 30/10/2022 đến ngày 30/6/2025 mãn hụi, mỗi dây hụi tháng đóng 3.000.000đ/lần, mỗi dây hụi có 32 thành viên, ông tham gia mỗi dây hụi là 03 phần hụi, mỗi dây hụi ông đã đóng được 04 lần thì bà M tuyên bố bể hụi, ông đóng hụi cho bà M được số tiền là 144.000.000đồng, sau khi bể hụi đến nay bà M có trả cho ông được số tiền 38.000.000đồng và hiện nay bà M phải trả lại cho ông T nợ hụi số tiền 106.000.000đồng.

Ngoài ra, ông có cho bà M vay nhiều lần với số tiền 420.000.000đồng, các lần vay cụ thể: Ngày 09/11/2022 ông có cho bà M vay số tiền 300.000.000đồng, ông là người trực tiếp giao tiền cho bà M, khi đó ông bận công việc phải đi nên có viết biên nhận ghi Huỳnh Tấn H2 là người cho mượn, còn bà M là người mượn tiền; Ngày 19/01/2023 bà M tiếp tục vay thêm của ông số tiền 100.000.000đồng, có làm biên nhận cộng nợ cũ trên thành số tiền 400.000.000đồng và ngày 18/3/2023 bà M tiếp tục vay thêm của ông số tiền 20.000.000đồng, có làm biên nhận. Nay ông T yêu cầu bà M ông H1 liên đới trả nợ vay, nợ hụi tổng cộng là 526.000.000đồng và không yêu cầu tính lãi.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn ông T yêu cầu bị đơn bà M ông H1 liên đới trả nợ tiền hụi là 106.000.000đồng, Hội đồng xét xử nhận thấy có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: Phía bị đơn bà M thừa nhận bà là chủ hụi, còn ông T là thành viên chơi hụi, bà có khui hai dây hụi tháng vào ngày 30/10/2022 đến ngày 30/6/2025 mãn hụi, mỗi dây hụi tháng đóng 3.000.000đ/lần, mỗi dây hụi có 32 thành viên tham gia, ông T tham gia mỗi dây hụi 03 phần hụi, ông đóng hụi cho bà M mỗi dây hụi được 04 lần với số tiền là 144.000.000đồng, sau khi bể hụi đến nay bà M có trả cho ông T được số tiền 38.000.000đồng và nay bà M đồng ý trả lại tiền hụi cho ông T số tiền 106.000.000đồng. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, yêu cầu của ông T yêu cầu vợ chồng bà M ông H1 phải có nghĩa vụ cùng liên đới trả nợ hụi số tiền 106.000.000đồng là phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự và Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

[5] Xét yêu cầu của ông T yêu cầu vợ chồng bà M ông H1 liên đới trả nợ vay số tiền 420.000.000đồng là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, giữa ông T và bà M đều xác nhận có giao dịch dân sự vay tiền với nhau. Phía bị đơn bà M thừa nhận có vay tiền của ông T nhiều lần với số tiền 420.000.000đồng nhưng đến nay chưa trả nợ vay cho ông T. Mặt khác, cho thấy phía nguyên đơn ông T cung cấp được 03 Giấy làm bằng thể hiện việc bà M vay tiền của ông T cụ thể: ngày 09/11/2022 vay số tiền 300.000.000đồng; ngày 19/01/2023 vay số tiền 100.000.000đồng; ngày 18/3/2023 vay số tiền 20.000.000đồng và bà M thừa nhận có ký tên, còn nội dung các “Giấy làm bằng” do ông T ghi. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, yêu cầu của ông T yêu cầu vợ chồng bà M ông H1 phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ vay số tiền 420.000.000đồng là phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự.

[6] Xét thấy bà M là người trực tiếp đứng ra thực hiện giao dịch dân sự về hụi và vay tiền, còn ông Huỳnh Văn H1 là chồng bà M có biết số nợ vay, nợ hụi giữa ông T với vợ chồng ông bà, khi Tòa án gửi các văn bản tố tụng thì ông H1 có biết nhưng ông H1 không đến Tòa án làm việc và cũng không trình bày ý kiến của mình. Bà M khui hụi, vay tiền mục đích để tăng thu nhập, kinh tế và trang trải cuộc sống trong gia đình nên ông H1 phải có trách nhiệm cùng với bà M trả nợ vay, nợ hụi tổng cộng là 526.000.000 đồng cho ông T là phù hợp với quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[7] Về lãi suất: Bà M khai khi thực hiện giao dịch vay tiền với nhau, có thỏa thuận lãi (bằng lời nói), đóng lãi 5.000.000đồng trên số tiền 100.000.000đồng, bà đóng lãi cho ông T mỗi tháng là 21.000.000đồng, bà đóng lãi cho ông T từ khi vay cho đến tháng 5/2023 được số tiền 126.000.000đồng. Khi đóng lãi không có làm giấy tờ, biên nhận, cũng không ai chứng kiến việc bà đóng lãi cho ông T. Phía bà M khai đã đóng tiền lãi cho ông T được số tiền 126.000.000đồng nhưng bà M không cung cấp được tài liệu, chứng cứ cho yêu cầu này của mình. Đồng thời, tại phiên tòa ông T không thừa nhận có thỏa thuận lãi, ông cũng không nhận tiền lãi của bà M. Mặt khác, tại đơn khởi kiện ông T không yêu cầu tính lãi đối với bà M ông H1 cả hai khoản nợ vay, nợ hụi nên Hội đồng xét xử miễn xét yêu cầu của ông T và không chấp nhận yêu cầu của bà M về xem xét tiền lãi đã đóng cho ông T.

[8] Xét yêu cầu của bị đơn bà M về việc xin trả dần số nợ hụi, nợ vay là không có cơ sở chấp nhận do yêu cầu của bà không được ông T đồng ý. Hơn nữa Bộ luật Dân sự cũng không quy định thời gian trả chậm nếu các đương sự không có thoả thuận.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị Tuyết M ông Huỳnh Văn H1 phải có nghĩa vụ liên đới trả nợ vay, nợ hụi số tiền là 526.000.000đồng (Trong đó nợ vay là 420.000.000đồng, nợ hụi là 106.000.000đồng) cho ông Huỳnh Kim T.

[9] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 25.040.000đồng.

- Do bà Nguyễn Thị Tuyết M và ông Huỳnh Văn H1 bị buộc trả nợ nên phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Áp dụng: Điều 463, Điều 466, Điều 471 Bộ luật Dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biểu, phường. Tuyên xử:

1/ Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết M, ông Huỳnh Văn H1 liên đới phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay, nợ hụi số tiền là 526.000.000đ (Năm trăm hai mươi sáu triệu đồng) cho ông Huỳnh Kim T.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên, thì người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

2/ Về án phí: Áp dụng Điều 144, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Buộc bà Nguyễn Thị Tuyết M, ông Huỳnh Văn H1 phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 25.040.000đ (Hai mươi lăm triệu, không trăm bốn mươi nghìn đồng).

3/ Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (15/10/2024). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự nợ hụi và vay tài sản số 136/2024/DS-ST

Số hiệu:136/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/10/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;