TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIÊN LƯƠNG, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 113/2024/DS-ST NGÀY 05/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ NỢ HỤI VÀ VAY TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 287/2024/TLST-DS ngày 16 tháng 7 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng dân sự về nợ hụi và vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2024/QĐXXST-DS, ngày 26 tháng 8 năm 2024 giữa:
1/ Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1967 (có mặt).
Địa chỉ: Tổ A, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Hồng H1, sinh năm 1969 (có mặt).
Địa chỉ: ấp K, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H1: Luật sư Phạm Minh T, sinh năm 1967 - Văn phòng L thuộc đoàn luật sư tỉnh K (vắng mặt).
Địa chỉ liên hệ: Tổ F, khu phố B, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.
2/ Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H2 (tên gọi khác: H3) (có mặt).
Địa chỉ: Số A, tổ A, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và những lời khai tại Tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị H và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Mai Hồng H1 trình bày: Bà là chủ hụi, còn bà Nguyễn Thị H2 là thành viên chơi hụi. Bà H2 có tham gia chơi hụi của bà H1 từ năm 2018 đến nay. Bà H2 tham gia các dây hụi, hiện nay các dây hụi đã mãn, sau khi bà H2 đã hốt hụi xong thì bà H2 không đóng lại hụi chết đầy đủ, khi giao hụi đều có làm giấy, cụ thể: Ngày 19/5/2018 bà H2 hốt hụi được số tiền 22.600.000đ và ngày 19/01/2018 bà H2 hốt hụi được số tiền 12.400.000đ. Tính đến cuối kỳ mãn hụi bà H2 còn nợ hụi tổng cộng là 36.750.000đ Ngoài ra, ngày 21/3/2019 bà H1 có cho bà H2 vay số tiền 31.000.000đ. Tổng cộng nợ vay, nợ hụi là 67.500.000đ, bà và bà H2 có chốt lại nợ vào ngày 7/2/2020 sau đó bà H2 đã trả được số tiền 2.000.000đ, bà H2 có ký tên và đến nay bà H2 còn nợ lại là 65.500.000đ.
Nay bà H1 yêu cầu bà H2 trả nợ hụi, nợ vay gốc số tiền 65.500.000đ và yêu cầu bà H2 trả lãi theo quy định pháp luật kể từ ngày 02/7/2020 đến khi xét xử.
Theo bản tự khai và những lời khai tại Tòa bị đơn bà Nguyễn Thị H2 (tên gọi khác: H3) trình bày: Bà là thành viên chơi hụi, còn bà Huỳnh Thị H là chủ hụi. Bà thừa nhận lời trình bày của bà H về ngày hốt hụi và vay nợ là đúng sự thật.
Bà thừa nhận sau khi hốt hụi thì bà không đóng lại hụi chết cho bà H, bà và bà H có chốt nợ hụi, nợ vay số tiền 67.500.000đ vào ngày 07/02/2020, có làm giấy nợ vay, nợ hụi và bà có trả được 02 lần với số tiền 2.000.000đ, bà có ký tên. Nay bà thừa nhận còn nợ bà H số tiền 65.500.000đ và bà xin trả mỗi tháng 400.000đ cho đến khi hết nợ vay cho bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà H: Luật sư Phạm Minh T vắng mặt và tại phiên tòa bà H đề nghị xét xử vắng mặt luật sư nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật tranh chấp: Bị đơn bà Nguyễn Thị H2 có nơi cư trú tại: Tổ A, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Đây là vụ án "Tranh chấp hợp đồng dân sự về nợ hụi và vay tài sản" được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung vụ án: Giữa bà H, bà H2 có thực hiện giao dịch dân sự về hụi, vay tài sản, bà Nguyễn Thị H2 là thành viên chơi hụi, còn bà Huỳnh Thị H là chủ hụi. Bà H2 có tham gia chơi hụi của bà H từ năm 2018 đến nay. Bà H2 tham gia các dây hụi, hiện nay các dây hụi đã mãn, sau khi bà H2 đã hốt hụi xong thì bà H2 không đóng lại hụi chết đầy đủ, khi giao hụi đều có làm giấy, cụ thể: Ngày 19/5/2018 bà H2 hốt hụi được số tiền 22.600.000đ và ngày 19/01/2018 bà H2 hốt hụi được số tiền 12.400.000đ. Tính đến cuối kỳ mãn hụi bà H2 còn nợ hụi tổng cộng là 36.750.000đ. Ngoài ra, ngày 21/3/2019 bà có cho bà H2 vay số tiền 31.000.000đ. Tổng cộng nợ vay, nợ hụi là 67.500.000đ, bà và bà H2 có chốt lại nợ vào ngày 7/2/2020 và bà H2 đã trả được số tiền 2.000.000đ, bà H2 có ký tên. Nay bà H yêu cầu bà H2 trả nợ vay, nợ hụi gốc là 65.500.000đ và yêu cầu tính lãi kể từ ngày 07/02/2020 cho đến ngày xét xử.
[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn bà H yêu cầu bị đơn bà H2 trả nợ tiền hụi là 36.750.000đ, Hội đồng xét xử nhận thấy có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: Phía bị đơn bà H2 thừa nhận bà là thành viên chơi hụi, còn bà H là chủ hụi, bà H2 tham gia các dây hụi, hiện nay các dây hụi đã mãn, sau khi bà H2 đã hốt hụi xong thì bà H2 không đóng lại hụi chết đầy đủ và phía nguyên đơn cung cấp được giấy giao hụi cho bà H2 như sau: Ngày 19/5/2018 bà H2 hốt hụi được số tiền 22.600.000đ và ngày 19/01/2018 bà H2 hốt hụi được số tiền 12.400.000đ. Tính đến cuối kỳ mãn hụi bà H2 còn nợ hụi tổng cộng là 36.750.000đ, nay bà H2 thừa nhận còn nợ hụi tổng cộng là 36.750.000đ. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, yêu cầu của bà H yêu cầu bà H2 trả nợ hụi số tiền 36.750.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự và Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.
[4] Xét yêu cầu của bà H yêu cầu bà H2 trả nợ vay số tiền 31.000.000đ là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, giữa bà H và bà H2 đều xác nhận có giao dịch dân sự vay tiền với nhau. Phía bị đơn bà H2 thừa nhận có vay tiền của bà H nhưng đến nay chưa trả nợ vay cho bà H và còn nợ bà H số tiền 31.000.000đ và phía nguyên đơn có cung cấp được giấy ghi nợ để ngày 21/3/2019 bà H2 ký tên. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy, yêu cầu của bà H yêu cầu bà H2 trả nợ vay số tiền 31.000.000đ là phù hợp với quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật Dân sự.
[5] Về lãi suất: Đối với yêu cầu của bà H yêu cầu tính lãi suất theo quy định pháp luật trên số nợ vay, nợ hụi số tiền 65.500.000đ kể từ ngày 07/02/2020 đến ngày xét xử là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 5 Điều 466, khoản 3 Điều 471 Bộ luật dân sự. Do bà H2 vay tiền chậm trả nợ vay cho bà H và bà H2 sau khi nhận đầy đủ tiền hụi nhưng không thực hiện nghĩa vụ đóng lại tiền hụi chết cho bà H, bà H đã tự bỏ tiền ra đóng hụi chết của bà H2 cho các hụi viên khác, bà H2 không thực hiện đúng nghĩa vụ trả tiền vay, tiền hụi nên phải trả lãi trên số tiền chậm trả, do các đương sự không có thỏa thuận về lãi suất nên áp dụng khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định mức lãi suất là 10%/năm, cụ thể: Lãi suất chậm trả tiền trên số tiền 65.500.000đ tính từ ngày 07/02/2020 đến ngày xét xử (ngày 05/9/2024) là 54 tháng 12 ngày và lãi suất được tính như sau: [65.500.000đ x (10%: 12 tháng) x 54 tháng] + [65.500.000đ x (0.83%: 30 ngày) x 12 ngày] = 29.569.320đ. Như vậy, bà H2 phải trả tiền lãi cho bà H là 29.569.320đ.
[6] Xét yêu cầu của bị đơn bà H2 về việc xin trả dần số nợ hụi, nợ vay mỗi tháng là 400.000đ là không có cơ sở chấp nhận do yêu cầu của bà không được bà H đồng ý. Hơn nữa Bộ luật Dân sự cũng không quy định thời gian trả chậm nếu các đương sự không có thoả thuận.
Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc bà Nguyễn Thị H2 trả nợ vay, nợ hụi gốc lãi là 95.069.320đ (Trong đó nợ hụi, nợ vay gốc là 65.500.000đ, nợ lãi là 29.569.320đ) cho bà Huỳnh Thị H.
[9] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 4.753.466đ.
- Do bà Nguyễn Thị H2 bị buộc trả nợ nên phải chịu án phí sơ thẩm trên số tiền phải trả.
- Do được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nên bà Huỳnh Thị H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Áp dụng: Điều 463, Điều 466, Điều 471, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự và Nghị định số: 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường. Tuyên xử:
1/ Buộc bị đơn bà Nguyễn Thị H2 (tên gọi khác: H3) phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay, nợ hụi gốc lãi là 95.069.320đ (Trong đó nợ hụi, nợ vay gốc là 65.500.000đ, nợ lãi là 29.569.320đ) cho bà Huỳnh Thị H.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả số tiền nêu trên, thì người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.
2/ Về án phí: Áp dụng Điều 144, Điều 145, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
- Buộc bà Nguyễn Thị H2 (H3) phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 4.753.466đ (Bốn triệu, bảy trăm năm mươi ba nghìn, bốn trăm sáu mươi sáu đồng).
- Bà Huỳnh Thị H được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.693.750đ (Một triệu, sáu trăm chín mươi ba nghìn, bảy trăm năm mươi đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004053 ngày 16/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.
3/ Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05/9/2024).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự nợ hụi và vay tài sản số 113/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 113/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiên Lương - Kiên Giang |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 05/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về