TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 440/2024/DS-PT NGÀY 05/09/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ ĐÒI LẠI TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 269/2024/TBTL-TA ngày 23 tháng 7 năm 2024 về việc tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và “Đòi lại tài sản”;
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 77/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 345/2024/QĐ-PT ngày 29 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm 1984; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. ( có mặt)
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thu V, sinh năm 1972; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. (có đơn xin xét xử vắng mặt) Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1974; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. (có mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn H: Ông Phạm Thế C, sinh năm 1987; Địa chỉ: Khu phố C, thị trấn D, Huyện D, Tỉnh Tây Ninh. (theo văn bản ủy quyền ngày 17-10-2023). (có mặt)
3. Người làm chứng: ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1960; bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1962 (vợ ông N); cư trú tại: Tổ A, ấp L, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. ( có mặt) 4. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ánh T; bị đơn ông Nguyễn Văn H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 08 tháng 8 năm 2023 của nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Ánh T và quá trình giải quyết vụ án trình bày:
Vào ngày 18-11-2013 bà T và ông H, bà V có ký hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích 4.820m², thửa đất số 518, tờ bản đồ số 60 (đo đạc hiện trạng 4.132,6m²; thửa số 36, tờ bản đồ số 60) tọa lạc tại ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Hai bên thoả thuận giá chuyển nhượng 1,2 tỷ đồng/ héc ta, khi nào đo đạc thì tính diện tích theo hiện trạng, bà đã giao cho ông H và bà V tổng số tiền 510.000.000 đồng (thoả thuận cần trừ nợ 370.000.000 đồng vào năm 2013 ông H và bà V đã vay trước, giao thêm số tiền 140.000.000 đồng); có làm giấy tay sang nhượng đất nhưng do thời gian đã lâu nên làm mất giấy tay sang nhượng; kể từ ngày sang nhượng đến nay bà đã nhận đất, trồng cây cao su canh tác ổn định và xây dựng hàng rào, làm cổng sắt bao quanh đất không có tranh chấp xảy ra.
Nay bà yêu cầu Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đo đạc hiện trạng 4.132,6m²; thửa số 36, tờ bản đồ số 60, tọa lạc tại ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh giữa giữa bà và ông H, bà V có hiệu lực pháp luật và yêu cầu ông H bà V trả lại số tiền 14.088.000 đồng là số tiền trả cho việc sang nhượng đất còn thừa.
Bị đơn bà Nguyễn Thị Thu V trình bày: Bà là vợ của ông H hiện đã ly hôn, khi vợ chồng còn sống chung vào khoảng thời gian năm 2015-2016 có nợ Ngân hàng N1- Chi nhánh Huyện D, khi đến hạn trả nợ, vợ chồng mượn của bà T số tiền 370.000.000 đồng để trả nợ cho Ngân hàng; có ghi giấy nợ giao Tuyết giữ và có mặt ông H, bà là người nhận số tiền 370.000.000 đồng, sau khi đáo hạn Ngân hàng vợ chồng không có tiền để trả cho T nên bà nói với ông H bán luôn phần đất có diện tích khoảng hơn 04 công để trừ nợ tiền vay của T, thoả thuận giá bán 1,2 tỷ đồng/ ha, làm giấy tay bán đất cho T giữ. Sau khi ly hôn bà không biết bà T có trả thêm tiền cho ông H hay không, bà nghĩ bà T và ông H đã làm thủ tục sang tên xong, việc ai làm hàng rào thì bà không biết, bà không liên quan đến phần đất này và không có tranh chấp hay bất kỳ yêu cầu gì. Ông H và bà T tự giải quyết với nhau.
Bị đơn ông Nguyễn Văn H và người đại diện ủy quyền trình bày: Ông H là anh ruột của bà T, ông H không sang nhượng phần đất tranh chấp như lời trình của nguyên đơn. Ông H và bà V là vợ chồng nhưng đã ly hôn vào năm 2017, trước khi ly hôn ông có mượn của bà T số tiền 150.000.000 đồng đã trả được 100.000.000 đồng; ông xác định đã giao phần đất tranh chấp và cây cao su cho bà T từ năm 2019 đến nay để bà T quản lý và cạo mũ cao su để trừ tiền lãi, hiện nay ông còn nợ bà T số tiền khoảng 50.000.000 đồng có thương lượng với T để trả nợ nhưng chị T không đồng ý;
Đối với hàng rào do T xây dựng trên đất từ năm nào không biết, do đó ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có hiệu lực pháp luật đối với phần đất có diện tích 4.820m2, thửa đất số 518, tờ bản đồ số 60 (đo đạc hiện trạng 4.132,6m2; thửa số 36, tờ bản đồ số 60). Không đồng ý trả lại số tiền 14.088.000 đồng.
Những người làm chứng:
Bà Nguyễn Thị T1, bà Nguyễn Thị C1 và bà Nguyễn Thị P trình bày: Các bà là em ruột của ông H xác nhận ông H và bà V đã chuyển nhượng phần đất 4.820m2, thửa đất số 518, tờ bản đồ số 60 (đo đạc hiện trạng 4.132,6m2; thửa số 36, tờ bản đồ số 60) cho bà T từ năm 2013, có chứng kiến việc hai bên làm giấy tay bán đất. Ông H đã giao đất cho bà T sử dụng từ cuối năm 2013 cho đến nay, trên đất có cây cao su của bà T trồng và hàng rào cũng do bà T xây, đề nghị ông H và bà V tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng nói trên cho bà T.
Chứng thư thẩm định số 23489/CT/T-VVALUES của Công ty cổ phần T5 kết luận: Quyền sử dụng đất diện tích 4.132,6 m2, thửa 36, tờ bản đồ số 60; tọa lạc tại ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh giá trị đất: 1.987.780.600 đồng (481.000 đồng/ m2), tài sản trên đất 133.807.644 đồng. Tổng giá trị tài sản: 2.121.588.244 đồng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 77/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh,đã xử:
Căn cứ vào Điều 129 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 309, 315, 401, khoản 4 Điều 404, 405, 410, 699, 701, 702 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 188 của Luật đất đai năm 2013; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10 tháng 8 năm 2004 về hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-122016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ánh T đối với ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Thu V về tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và “Đôi lại tài sản”.
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Ánh T và ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Thu V đối với diện tích 4.132,6 m2 thửa đất 36, tờ bản đồ số 60; tọa lạc tại ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh có hiệu lực. Bà Nguyễn Thị Ánh T được quyền sử dụng diện tích đất 4.132,6 m2 thửa đất 36, tờ bản đồ số 60 và tài sản trên đất; tọa lạc tại ấp T, xã S, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.
Bà Nguyễn Thị Ánh T được quyền yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền về đăng ký đất đai thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai theo quyết định của bản án này.
2. Bà Nguyễn Thị Ánh T có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn H số tiền 504.713.300 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu của bà T về việc yêu cầu ông H và bà V hoàn trả số tiền 14.088.000 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ chậm thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự.
* Nội dung kháng cáo:
- Ngày 20-6-2024 ông Nguyễn Văn H là bị đơn có đơn kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm và yêu cầu: Công nhận quyền sở hữu hợp pháp diện tích 4.132,6 m2 cho ông, bà T phải trả cho ông diện tích đất trên. Phần nợ 370.000.000 đồng mà ông mượn trả tiền ngân hàng, ông đã trả cho bà T nhiều lần hiện nay còn lại 50.000.000 đồng ông sẽ trả đủ. Công nhận cây cao su trên đất thuộc quyền sở hữu của ông.
- Cùng ngày 20-6-2024 bà Nguyễn Thị Ánh T là nguyên đơn có đơn kháng cáo không đồng ý bản án sơ thẩm đã buộc bà phải trả tiền cho ông H, đề nghị chấp nhận khởi kiện buộc ông H trả lại tiền thanh toán sang nhượng đất thửa là 14.088.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Bị đơn ông H giữ nguyên nội dung kháng cáo: yêu cầu Công nhận quyền sở hữu hợp pháp diện tích 4.132,6 m2 cho ông, buộc bà T phải trả cho ông diện tích đất trên. Công nhận cây cao su trên đất thuộc quyền sở hữu của ông. Không đồng ý trả số tiền 14.088.000 đồng theo yêu cầu của bà T.
Nguyên đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo: Xác định đã trả 510.000.000 đồng tiền sang nhượng đất tương đương giá 1,2 tỷ/ 01 ha, diện tích hiện nay qua đo đạc là 4.132,6 m2 là thửa số tiền 14.088.000 đồng. Bà đã nhận đất quản lý sử dụng từ khi sang nhượng cho đến nay, không đồng ý trả 504.713.300 đồng cho ông H như bản án sơ thẩm đã tuyên.
Trong phần tranh luận;
Đại diện theo ủy quyền của ông H trình bày: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T khẳng định không có giấy mua bán đất nhưng sau đó lại trình bày có nhưng bị thất lạc là không đúng. Xem xét lại các chứng cứ thu thập, đa số những người xác nhận cho bà T là những người không trực tiếp và là người thân nên không khách quan, lời khai của bà T không thống nhất về giá sang nhượng như: 370.000.000 đồng, 470.000.000 đồng, 490.000.000 đồng, 510.000.000 đồng, mâu thuẫn chính lời khai của mình. Giá tiền mua bán đất chưa bao giờ ông H xác nhận 1,2 tỷ/1ha. Bà T khẳng định bà trồng cao su nhưng có chứng cứ chứng minh, cao su không phải bà T trông, cụ thể là có 2 người làm chứng có mặt tại phiên tòa chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét ông H thừa nhận số tiền 370.000.000 đồng là tiền nợ không phải tiền sang nhượng đất. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định không khách quan, theo hướng suy luận vì bản thân người làm chứng khai mâu thuẫn với nhau. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của ông H.
Ông H tranh luận: Ông có mượn tiền 370.000.000 đồng, thì ông sẽ trả tiền mượn, không có chứng cứ nào chứng minh sang nhượng đất, cao su trên đất là do ông thuê người trồng.
Bà T không tranh luận.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa: Thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa phúc thẩm dân sự.
- Về việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng: Các đương sự đều thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn. Sửa bản án sơ thẩm theo hướng xác định giá tiền chuyển nhượng 1,2 tỷ đồng/ 01 ha, diện tích 4.132,6 m2 x 120.000 đồng/01 m2= 495.912.000 đồng, bà T đã trả 370.000.000 đồng còn phải trả 125.912.000 đồng và tính lãi suất theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được hỏi tại phiên toà và căn cứ ý kiến của các bên đương sự, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, cùng ngày 20-6-2024 bị đơn ông H, nguyên đơn bà T có đơn kháng cáo, qua xem xét về trình tự, thủ tục kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 271; Điều 272 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.1] Tại phiên tòa, bị đơn là bà V đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà V.
[1.2] Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm: Ngày 20-8-2024 đại diện theo ủy quyền của bị đơn có đơn Kiến nghị, cho rằng Tòa án cấp phúc thẩm vi phạm các quy định về tố tụng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn. Hội đồng xét xử thấy rằng:
Vụ án này được Tòa án mở phiên tòa phúc thẩm vào ngày 21-8-2024, ngày 20- 8-2024 Tòa án nhận được đơn đề nghị hoãn phiên tòa của người đại diện theo ủy quyền bị đơn, lý do: chưa nhận được thông báo thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm, trên cơ sở này Tòa án đã ra Thông báo số 52/TB-TA ngày 20-8-2024 về Thông báo thay đổi ngày xét xử vào ngày 05-9-2024 để thực hiện thủ tục tống đạt thông báo thụ lý vụ án và Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho đương sự.
[1.3] Tại cấp phúc thẩm phía bị đơn cung cấp tài liệu: Đơn yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ để ngày 20-8-2024 có nội dung: Yêu cầu Tòa án lấy lời khai của người làm chứng và triệu tập họ tham gia phiên xét xử. Xét thấy, các đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo các Điều 70, Điều 71 và Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa cấp sơ thẩm đã thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ. Quá trình giải quyết tại cấp sơ thẩm phía bị đơn đã cung cấp tài liệu là “Đơn xin xác nhận” để ngày 20-5-2024 và 21-5-2024 có những người làm chứng ký tên. Xét thấy, không cần thiết triệu tập đến phiên tòa nhưng phía bị đơn tự đưa người làm chứng đến tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử chấp nhận cho ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1960; bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1962 (vợ ông N); cư trú tại: Tổ A, ấp L, xã C, Huyện D, tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa với tư cách là người làm chứng.
[1.4] Đối với việc ông H yêu cầu thẩm định lại giá tài sản, thấy rằng: Lý do bị đơn yêu cầu định giá lại tài sản vì tại hướng Đông của đất giáp đường A mà công ty Đ1 lại xác định giáp đường đất là không đúng, bởi đoạn đường này đang được rải đá và đang tiến hành thâm nhựa. Xét thấy, ngay nội dung đơn để ngày 20-8- 2024 của bị đơn thể hiện con đường hiện hữu đang rải đá. Như vậy, không có căn cứ xác định chứng thư thẩm định vào tháng 2-2024 sai. Do đó, không có căn cứ thẩm định giá lại.
[2]. Về quan hệ pháp luật giải quyết: bà T khởi kiện yêu cầu lưu thông hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông H bà V và yêu cầu ông H trả lại số tiền 14.088.000 đồng thanh toán thừa tiền sang nhượng. Phía ông H không đồng ý. Các bên đương sự có tranh chấp. Tòa cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật giải quyết trong vụ án là tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và “Đôi lại tài sản” theo Điều 166; Điều 500 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự là có căn cứ.
[3]. Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1] Bị đơn ông H và nguyên đơn bà T là anh em ruột, cha là cụ Nguyễn Văn Đ chết 2003; mẹ là cụ Trà Thị T2 sinh năm 1944 hiện còn sống, diện tích đất các bên tranh chấp qua đo đạc thực tế 4.132,6 m² tọa lạc tại ấp T, xã S, Huyện D tỉnh Tây Ninh (thửa 518 diện tích 4.820 m²) có nguồn gốc là một phần trong tổng diện tích 45.000 m² đất do Ủy ban nhân dân Huyện D, tỉnh Tây Ninh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Nguyễn Văn Đ là cha ruột của bị đơn và nguyên đơn.
[3.2] Xét chứng cứ, tài liệu của ông Nguyễn Văn H cung cấp, thấy rằng: Ông H xác định có mượn nợ bà T 370.000.000 đồng để trả nợ ngân hàng, số tiền này ông đã trả nhiều lần hiện còn nợ 50.000.000 đồng, ngoài lời trình bày ra ông không cung cấp được chứng cứ trả tiền và chứng minh số tiền còn nợ phải trả, lời trình của ông H mâu thuẫn với lời trình bày của bà Nguyễn Thị Thu V (vợ đã ly hôn vào năm 2017), đồng thời bà T không thừa nhận số nợ 50.000.000 đồng. Do đó, lời trình bày của ông H không có căn cứ pháp lý.
Ngoài ra, ông H cung cấp tài liệu thể hiện: ông H có hỗ trợ tiền làm đường 6- 16, thuê người làm cống vào đám cao su …có xác nhận của Phó Trưởng ấp tên Phan Tấn I vào ngày 27-5-2024 nhưng không có mộc dấu của chính quyền; có thuê người trồng cao su năm 2013 và chăm sóc đến năm 2018…có T3 ấp tên Nguyễn Chí C2 ký tên vào ngày 24-5-2024 nhưng không có mộc dấu xác nhận của chính quyền, với những chứng cứ này chưa đủ căn cứ pháp lý xác định việc ông H trực tiếp quản lý sử dụng đối với diện tích đất tranh chấp thời gian 2013 cho đến nay.
[3.3] Xét chứng cứ của phía bà T cung cấp: là những xác nhận của chủ đất lân cận, họ là những người họ hàng trong gia đình, đều xác định có việc giao dịch sang nhượng đất, có xác nhận của chính quyền địa phương, nhưng người làm chứng theo đơn của ông H cung cấp và trình bày tại phiên tòa cũng là họ hàng trong gia đình, nội dung trình bày mâu thuẫn với những người làm chứng mà bà T cung cấp. Do đó, đây không phải là tài liệu chứng cứ mang tính quyết định khi giải quyết vụ án.
[4] Xét có việc giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất hay không? Hội đồng xét xử thấy rằng: Ông H, bà V, bà T trình bày thống nhất vào thời điểm năm 2013, ông H bà V có nợ ngân hàng số 370.000.000 đồng không có khả năng trả, bà T là người trả số tiền trên. Cùng thời điểm trên bà T nhận diện tích đất đang tranh chấp quản lý, sử dụng cho đến nay, thu hoạch cao su trên đất, xây hàng rào kiên cố trên đất phía ông H không có phân đối. Có căn cứ xác định bà T ông H bà V có giao dịch diện tích đất qua đo đạc thực tế 4.132,6 m², trên cơ sở:
[4.1] Thực tế bà T đã quản lý, sử dụng đất, thu hoạch cây trồng trên đất. Vào năm 2019 cụ Trà Thị T2 khởi kiện đối với ông H về tranh chấp thừa kế tài sản. Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu đã thụ lý số 444/2019/DS-ST ngày 26-12- 2019 và xét xử sơ thẩm tại bản án số 67/2023/DS-ST ngày 13-7-2023. Sau khi xét xử sơ thẩm các đương sự có kháng cáo. Tại bản án số 484/2023/DS-PT ngày 19- 12-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã xử: Sửa án sơ thẩm. Chấp nhận kháng cáo của cụ Trà Thị K, ông Nguyễn Văn C3, bà Nguyễn Thị P, Nguyễn Thị T1, Nguyễn Thị C1, Nguyễn Thị Ánh T. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn H. Bản án này đang có hiệu lực pháp luật, nội dung bản án thể hiện diện tích đất 4.132,6 m² ông H sang nhượng cho bà T, nên không giải quyết thừa kế tài sản, phía ông H cũng không khiếu nại nội dung trên trong suốt quá trình giải quyết vụ án về thừa kế tài sản, cụ T2 ( mẹ ruột ông H, bà T) và các anh chị em trong gia đình của ông H đều trình bày và xác nhận diện tích hiện nay bà T đang tranh chấp với ông H, trước đây vợ chồng ông H đã sang nhượng cho bà T và bà T đã nhận đất quản lý, sử dụng trồng cao su từ năm 2013 cho đến nay. Các bản án sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án đã không chia thừa kế đối với phần đất trên. Phía ông H cho rằng thiếu tiền bà T nên giao đất cho bà T sử dụng là không có căn cứ. Việc bà T xây hàng rào kiên cố ông H biết nhưng không phản ứng, phía đất giáp với bà T4 đang xây hàng rào vào năm 2016 phát sinh tranh chấp ranh đất với Thường nên việc xây dựng chưa hoàn thành, việc này có lời khai của bà T4 chủ đất liền kề và lời khai của các anh em trong nhà chứng minh sự việc tranh chấp giữa bà T4 và bà T là có thật. Phía ông H cho rằng ông ngăn cản không đồng ý cho bà T xây hàng rào nhưng không có chứng cứ chứng minh. Như vậy, có căn cứ xác định các bên đương sự có giao dịch diện tích đất tranh chấp.
[4.2] Về giá sang nhượng đất: Bà T trình bày là đã trả 510.000.000 đồng tương ứng với 1,2 tỷ đồng/ 1 ha đất thời điểm 2013, lời trình bày của bà T về giá sang nhượng phù với với lời trình bày của bà V (vợ của ông H). Có căn cứ xác định giá chuyển nhượng là 1.200.000.000 đồng/1 ha đất. Có căn cứ chứng minh bà T đã nhận đất sử dụng. Từ đó, Tòa cấp sơ thẩm tuyên bố giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H và bà T có hiệu lực pháp luật là có căn cứ.
Từ nhận định trên, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn H.
[5] Xét kháng cáo của bà T yêu cầu ông H trả số tiền thừa 14.088.000 đồng và không đồng ý trả cho ông Hiệu số tiền 504.713.300 đồng theo bản án sơ thẩm tuyên là tiền giá trị đất còn lại. Hội đồng xét xử thấy rằng:
[5.1] Về chứng cứ trả tiền: Bà T trình bày do có mối quan hệ anh em ruột, nên việc trả tiền không có lập giấy tờ. Tuy nhiên, ông H bà V đều xác định có nhận 370.000.000 đồng, ngoài ra bà T không cung cấp được tài liệu chứng cứ nào khác thể hiện trả số tiền còn lại. Cấp sơ thẩm xác định 1.200.000.000 đồng/1 ha đất, giá trị đất 120.000 đồng/1 m² là có căn cứ. Diện tích tranh chấp qua đo đạc thực tế là 4.132,6 m² x 120.000 đồng = 495.912.000 đồng. Như vậy, bà T đã trả số tiền 370.000.000 đồng nên phải trả tiếp 125.912.000 đồng còn lại và chịu lãi suất theo quy định 0,83%/01 tháng từ ngày 18-11-2013 cho đến nay là 10 năm 09 tháng 18 ngày = 135.440.850 đồng. Tổng cộng bà T phải trả cho ông H 261.521.850 đồng, làm tròn là 261.521.000 đồng.
[5.2] Đối với việc bà T đời ông H trả số tiền 14.088.000 đồng vì bà T cho rằng trả tiền sang nhượng đất là 510.000.000 đồng là thừa so với diện tích đất bà đã nhận 4.132,6 m² là không có cơ sở. Do đó, có căn cứ chấp nhận 01 phần kháng cáo của bà T.
Đề xuất của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh là có cơ sở pháp lý.
[6] Về án phí sơ thẩm:
Bà T phải chịu án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận. Ông H phải chịu chi phí tố tụng và án phí sơ thẩm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận.
[7] Án phí phúc thẩm:
Ông H phải chịu án phí phúc thẩm dân sự. Bà T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[8] Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 157; Điều 158; Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông H phải chịu chi phí xem xét thẩm định tại chỗ 9.000.000 đồng. Ghi nhận bà T đã nộp xong. Buộc ông có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền 9.000.000 đồng cho bà T.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Văn H.
Chấp nhận 01 phần kháng cáo của bà Nguyễn Thị Ánh T.
Sửa bản án sơ thẩm số 77/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
2. Căn cứ Điều 129; Điều 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Các Điều 309, 313, 401, khoản 4 Điều 404, 405, 410, 699,701,702 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 188 Luật Đất đai năm 2013;
Căn cứ Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Chấp nhận 01 phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ánh T về tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” và “Đòi tài sản” đối với ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Thu V.
Tuyên bố Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Thu V với bà Nguyễn Thị Ánh T đối với diện tích 4.132,6 m² đất tọa lạc tại ấp T, xã S, huyện D, tỉnh Tây Ninh có hiệu lực pháp luật.
Bà Nguyễn Thị Ánh T được quyền sử dụng diện tích đất 4.132,6 m² tọa lạc tại ấp T, xã S, huyện D, tỉnh Tây Ninh trên và được quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đất đai thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. Bà Nguyễn Thị Ánh T có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn H 261.521.000 (hai trăm sáu mươi mốt triệu, năm trăm hai mươi mốt) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành, nếu người phải thi hành án chưa thi hành xong thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ánh T đối với ông Nguyễn Văn H bà Nguyễn Thị Thu V đời số tiền 14.088.000 (Mười bốn triệu không trăm tám mươi tám ngàn) đồng.
5. Chi phí đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Bà Nguyễn Thị Ánh T đã nộp 9.000.000 đồng. Ông Nguyễn Văn H có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ánh T số tiền này.
6. Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Thu V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng).
Bà Nguyễn Thị Ánh T phải chịu 704.400 (Bảy trăm lẽ bốn ngàn bốn trăm) đồng án phí không được chấp nhận yêu cầu và 13.067.000 (mười ba triệu không trăm sáu mươi bảy ngàn) đồng. Ghi nhận bà T đã nộp tạm ứng án phí nộp 300.000 đồng và 379.200 đồng theo biên lai thu số 0013944 và 0013942 ngày 05/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Khấu trừ bà T còn phải nộp thêm 13.092.200 đồng, làm tròn là 13.092.000 (Mười ba triệu, không trăm chín mươi hai ngàn) đồng 7. Án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm . Khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) ông H đã nộp theo Biên lai thu số: 0007856 ngày 20-6-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Ghi nhận đã nộp xong.
Bà Nguyễn Thị Ánh T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Ánh T 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo Biên lai thu số: 0007865 ngày 21-6-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản số 440/2024/DS-PT
| Số hiệu: | 440/2024/DS-PT |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 05/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về