Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 42/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 42/2021/DS-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 12 15 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 515/2020/TLST-DS ngày 21/12/2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/QĐST-DS ngày 22/3/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên  đơn: Chị Nguyễn Ngọc Tây T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: số 144/32A, Phan Văn Hân, Phường 17, Quận B, Thành Phố Hồ Chí Minh.

Đại diện ủy quyền: Ông Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1967.

Địa chỉ: Số 634, tổ 34, Khu 2, Thị trấn C, huyện C, Tiền Giang. (Văn bản ủy quyền ngày 07/12/2020)

- Bị  đơn:

1/ Ông Tăng Văn K, sinh năm 1958.

2/ Bà Mai Thị N, sinh năm 1963.

3/ Chị Tăng Thị Ng, sinh năm 1984.

4/ Anh Tăng Văn Tu, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Tăng Văn K: Luật sư ông Nguyễn Văn D – Văn phòng luật sư Năm Giờ, thuộc đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Trần Quang V, sinh năm 1961.

Địa chỉ: ấp L, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

2/ Bà Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1968.

Địa chỉ: số 144/32A, Phan Văn Hân, Phường 17, Quận B, Thành Phố Hồ Chí Minh.

(Ông Tr, ông K, ông V, Luật sư D có mặt; bà N, chị Ng, anh Tu và bà L có đơn xin giải quyết vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 07/12/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Tr đại diện ủy quyền nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc Tây T trình bày:

Ngày 17/8/2020 ông K, bà N, chị Ng và anh Tu thỏa thuận chuyển nhượng phần đất ngang 7m dài 24m trong thửa số 674, tờ bản đồ số 01, diện tích 832m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do UBND huyện Cái Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD043359 ngày 30/3/2012 cho ông Tăng Văn K đại diện hộ gia đình đứng tên với giá 320.000.000 đồng có làm giấy tay chuyển nhượng, ngay sau khi làm giấy tay chị T đã giao số tiền 55.000.000 đồng, chuyển khoản cho ông K số tiền 105.000.000 đồng, còn lại số tiền 160.000.000 đồng sau khi làm hợp đồng chuyển nhượng xong sẽ giao đủ. Nhưng sau khi nhận tiền xong hộ gia đình ông K không làm thủ tục sang tên cho chị T mà ông K làm thủ tục đo đạc tặng cho phần đất này cho chị Tăng Thị Ng là con gái của ông K đã tách ra thành thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 và chị Ng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do ông K đã không thực hiện đúng theo giấy tay chuyển nhượng đất cho phía chị T.

Nay chị T yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 17/8/2020 giữa hộ ông K, bà N, chị Ng và anh T với chị T đối với phần đất thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và buộc hộ ông K, bà N, chị Ng và anh Tu giao phần đất này cho chị T, chị T đồng ý giao tiếp số tiền chuyển nhượng còn lại 160.000.000 đồng cho ông K, bà N, chị Ng và anh Tu; Chị T được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị T theo quy định của pháp luật.

Về chi phí tố tụng: Chị T yêu cầu ông K, bà N, chị Ng, anh Tu hoàn lại chi phí định giá và xem xét thẩm định tại chỗ với số tiền 1.500.000 đồng và 500.000 đồng tiền đo đạc phần đất, tổng cộng 2.000.000 đồng.

* Tại bản tự khai ngày 04/01/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn ông Tăng Văn K trình bày:

Ông Tăng Văn K qua sự giới thiệu của ông Trần Quang V nên ngày 17/8/2020 hộ gia đình ông K có thỏa thuận chuyển nhượng phần đất ngang 7m, dài 24m trong thửa số 674, tờ bản đồ số 01, diện tích 832m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện , tỉnh Tiền Giang do UBND huyện Cái Bè cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD043359 ngày 30/3/2012 cho ông Tăng Văn K đại diện hộ gia đình đứng tên với giá 320.000.000 đồng có làm giấy tay chuyển nhượng (theo ông K xác định giấy tay do ông K tự ghi và chữ ký trong giấy tay bán đất ngày 17/8/2020 thì ông K, bà N, chị Ng và anh Tu có ký tên trong giấy này), theo giấy tay chuyển nhượng thì ghi chị T giao trước số tiền 160.000.000 đồng nhưng thực tế khi làm giấy chưa giao số tiền nào, đến ngày 01/8/2020 chị T có chuyển khoản qua cho ông K số tiền chuyển nhượng đất 105.000.000 đồng hộ gia đình ông K chỉ nhận số tiền 100.000.000 đồng, còn lại 5.000.000 đồng là chị T gởi cho tiền cò môi giới bán đất cho ông Trần Quang V, nên số tiền chuyển nhượng còn lại 220.000.000 đồng hộ gia đình ông K chưa nhận.

Do thủ tục làm giấy tờ phải đi tới lui nên hộ gia đình ông K làm thủ tục thống nhất tặng cho phần diện tích đất này cho con gái ông K là chị Tăng Thị Ng đã được cấp giấy thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để chị Ng làm thủ tục chuyển nhượng cho chị T theo thỏa thuận, nhưng do hai bên đang tranh chấp về số tiền nhận chuyển nhượng nên đến nay chưa làm thủ tục chuyển nhượng cho chị T.

Nay hộ ông K, bà N, chị Ng, anh Tu đồng ý công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 17/8/2020 giữa hộ ông K, bà N, chị Ng và anh Tu với chị T đối với phần đất thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hộ ông K, bà N, chị Ng và anh Tu đồng ý giao phần đất này cho chị T, nhưng chị T phải giao số tiền chuyển nhượng còn lại 220.000.000 đồng.

Về chi phí tố tụng: Ông không đồng ý hoàn lại chi phí định giá 1.500.000 đồng và 500.000 đồng tiền đo đạc phần đất, tổng cộng 2.000.000 đồng cho chị T.

* Tại bản tự khai ngày 04/01/2020 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn Tu trình bày:

Chị Ng và anh Tu thống nhất với ý kiến trình bày và yêu cầu của ông Tăng Văn K không có ý kiến bổ sung gì thêm.

* Tại bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Quang V trình bày:

Do hộ ông K có nhu cầu chuyển nhượng đất nên ông V mới giới thiệu cho chị T là cháu của ông V để mua đất, nên ngày 17/8/2020 hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng số tiền 260.000.000 đồng, hai bên làm giấy tay bán đất, hai bên thỏa thuận chị T giao số tiền 160.000.000 đồng cho hộ ông K theo giấy tay do ông K ghi và các thành viên trong hộ ông K có ký tên, nhưng theo ông V xác định thực tế chị T đã gởi tiền chuyển khoản cho ông K chỉ 105.000.000 đồng, ông K đưa ông V 5.000.000 đồng tiền giới thiệu chị T mua đất.

Theo giấy tay ghi giá 320.000.000 đồng là để giá cao cho chị T sau này bán cho người khác, chứ thực chất hai bên thỏa thuận giá chỉ 260.000.000 đồng, nên chị T chỉ còn chưa giao số tiền bán đất 160.000.000 đồng cho hộ ông K, nên ông V thống nhất với ý kiến yêu cầu của chị T về việc yêu cầu hộ ông K phải giao đất cho chị T theo thỏa thuận và chị T giao tiếp số tiền chuyển nhượng 160.000.000 đồng cho hộ ông K.

* Tại bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc L trình bày:

Bà Nguyễn Ngọc thống nhất với ý kiến trình bày và yêu cầu của nguyên đơn chị T không có ý kiến bổ sung gì thêm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè phát biểu ý kiến và đề nghị:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử thực hiện đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tuân thủ theo đúng quy định Bộ luật tố tụng dân sự. Tư cách của người tham gia tố tụng tuân thủ theo đúng quy định của Điều 68, 70, 71, 72, 73, 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và lời khai các đương sự tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhận thấy yêu cầu khởi kiện của chị T là có căn cứ chấp nhận. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 129 Bộ luật dân sự; Điều 179, Điều 188 Luật đất đai. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, buộc hộ ông K tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy thỏa thuận ngày 17/8/2020. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T trả tiếp số tiền còn lại 160.000.000 đồng. Buộc hộ ông K phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Tăng Văn K phát biểu ý kiến và đề nghị.

Tại tòa, bị đơn ông K thống nhất việc chuyển nhượng đất cho nguyên đơn chị T theo giấy tay ngày 17/8/2020 phần đất thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên.

Tuy nhiên, đối với số tiền đặt cọc 160.000.000 đồng ông K chỉ nhận 100.000.000 đồng còn lại 60.000.000 đồng thì ông K chưa nhận, khi làm giấy tay ngày 17/8/2020 tại nhà ông K không có mặt chị T khi làm giấy, có 02 người làm chứng và ông V cũng xác định ngay sau khi làm giấy thì chị T không có mặt và giao số tiền 160.000.000 đồng, cho đến ngày 19/8/2020 thì chị T có chuyển khoản cho ông K 105.000.000 đồng đây là chứng cứ cho việc giao tiền đặt cọc. Do đó, có căn cứ để xác định ông K chỉ nhận 100.000.000 đồng còn lại 220.000.000 dồng ông K chưa nhận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét buộc chị T giao số tiền 220.000.000 đồng cho ông .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Tây T xác định đây là tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” theo quy định tại Điều 500 Bộ luật dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cái Bè theo quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn Tu, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Ngọc L có đơn xin giải quyết vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà N, chị Ng, anh Tu, bà L là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét, theo lời khai của ông Tr đại diện ủy quyền nguyên đơn chị T với bị đơn ông K, bà N, chị N và anh Tu trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm xác định ngày 17/8/2020 giữa chị Thi với hộ ông K có làm giấy tay thỏa thuận chuyển nhượng phần đất ngang 07m, dài 24m trong thửa số 674, tờ bản đồ số 01, diện tích 832m2 do UBND huyện Cái Bè cấp ngày 30/3/2012 cho ông Tăng Văn K đại diện hộ gia đình đứng tên, nhưng ông K đã làm thủ tục tặng cho phần đất này cho chị Tăng Thị Ng (con gái ông K) đã được cấp đổi giấy mới thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ngu đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên lời thừa nhận của ông K, bà N, chị Ng và anh Tu đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật dân sự. Do đó, có căn cứ để xác định hai bên có xác lập giao dịch dân sự về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 116, Điều 117 Bộ luật dân sự.

[4] Tuy nhiên, ông Tr đại diện ủy quyền nguyên đơn chị T và ông K trình bày thống nhất giá chuyển nhượng phần đất thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang ghi trong giấy tay chuyển nhượng ngày 17/8/2020 là 320.000.000 đồng, hiện tại hai bên đang tranh chấp số tiền giao đặt cọc theo ông Tr đại diện ủy quyền nguyên đơn chị T xác định ngay sau khi ông K viết giấy tay chuyển nhượng ngày 17/8/2020 do chị T không đem theo đủ tiền nên chỉ giao trước cho hộ ông K số tiền 55.000.000 đồng, còn lại 105.000.000 đồng chị T đã chuyển khoản qua số tài khoản số 0109122779 của ông K vào ngày 19/8/2020, do chị T ở Thành phố Hồ Chí Minh nên khi làm giấy tay thì hai bên đã thống nhất ghi số tiền cọc đã giao trước 160.000.000 đồng để chị T không phải xuống để làm giấy khác. Còn bị đơn ông K xác định ông chỉ nhận số tiền từ chị T chuyển khoản cho ông ngày 19/8/2020 chỉ 105.000.000 đồng, nhưng ông K nhận số tiền 100.000.000 đồng, còn lại 5.000.000 đồng thì chị T nhờ đưa cho ông V tiền cò môi giới. Mặc khác, ông K cho rằng khi ông viết giấy tay chuyển nhượng ngày 17/8/2020 tại nhà của ông thì không có mặt chị T nên chị T không thể giao số tiền đặt cọc được và có những người làm chứng và ông V cũng xác định. Xét, qua xem xét toàn bộ nội dung theo giấy tay thỏa thuận bán phần đất nền thổ cư ngày 17/8/2020 do bị đơn ông Tăng Văn K viết tại dòng thứ 02 đến thứ 05 trang 01 của giấy tay ghi “gia đình gồm có 04 nhân khẩu thành viên thỏa thuận bán số tiền là 320.000.000 đồng (Ba trăm hai mươi triệu đồng), đã nhậ n cọc của cô Nguyễn Ngọc Tây T là 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng chẳn) và ở trang 02 của giấy tay thì chị T và các bị đơn có ký tên”. Như vậy, theo giấy tay do ông K tự viết đã ghi rõ các bị đơn đã nhận đủ số tiền đặt cọc 160.000.000 đồng và trong giấy tay chị ký tên ghi bên mua đây là chứng cứ để chứng minh cho việc chị T có mặt ngày 17/8/2020. Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông K không có cung cấp được tài liệu chứng cứ gì để chứng minh cho việc chị T chưa giao đủ số tiền đặt cọc 160.000.000 đồng, còn số tiền 5.000.000 đồng ông K cho rằng ông K không nhận mà đưa tiền cò giới thiệu cho anh V mà chị T kêu đưa dùm, nhưng ông Tr đại diện ủy quyền của chị T không thừa nhận việc chị T kêu ông K đưa số tiền 5.000.000 đồng cho anh V, mà ông K không có gì để chứng minh, việc ông K tự đưa số tiền 5.000.000 đồng cho anh V thì ông K tự chịu trách nhiệm. Do đó, có căn cứ để xác định phía chị T đã giao số tiền đặt cọc cho bị đơn nhận 160.000.000 đồng, nguyên đơn chị T tự nguyện giao số tiền còn lại 160.000.000 đồng cho bị đơn là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 500, Điều 503 của Bộ luật dân sự.

[5] Ngoài ra, trên phần đất bị đơn chuyển nhượng cho chị theo biên bản định giá tài sản ngày 22/01/2021 có các cây trồng như 10 cây mít loại A, 13 cây mít loại B2, 06 cây mít loại B1, 01 cây dừa loại A, 03 cây mai vàn g đường kính 10cm đến 20cm theo giấy tay chuyển nhượng không thể hiện việc chuyển nhượng các cây trồng trên đất. Tuy nhiên, tại phiên tòa ông K cũng thống nhất giao toàn bộ các cây mít và dừa cho chị T không yêu cầu hoàn trả giá trị cây trồng, ông chỉ di dời 03 cây mai vàng đường kính 10 đến 20 cm, ông Tr đại diện ủy quyền của chị T cũng thống nhất để cho ông K di dời 03 cây mai vàng. Xét, đây là sự tự nguyện hai bên nên Hội đồng xé t xử ghi nhận.

[6] Về chi phí tố tụng: nguyên đơn chị T yêu cầu bị đơn hoàn trả chi phí tố tụng gồm chi phí định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí đo đạc với số tiền 2.000.000 đồng là có cơ sở để chấp nhận. Do trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn không thống nhất việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, nên chị T có đơn yêu cầu định giá tài sản, xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí đo đạc, do yêu cầu khởi kiện nguyên đơn là có căn cứ nên buộc bị đơn có nghĩa vụ hoàn lại chi phí tố tụng cho chị T với số tiền 2.000.000 đồng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 157, Điều 165 Bộ luật tố tụng dân sự.

[7] Xét, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát.

[8] Xét, đề nghị của Luật sư là có căn cứ chấp nhận một phần, nên chấp nhận một phần đề nghị của Luật sư.

[9] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, căn cứ vào Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, nên các bị đơn và chị Thi phải chịu án phí dân sự sơ thẩm cụ thể.

Số tiền ông K, bà N, chị Ng và anh Tu phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Số tiền chị T phải chịu: 160.000.000 đồng x 5% = 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 116, 117, 500, 503 Bộ luật dân sự; Điều 179 Luật đất đai; khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; Điều 157, 165, 227, 228, 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Tây T.

Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giấy tay ngày 17/8/2020 giữa chị Nguyễn Ngọc Tây T với ông Tăng Văn K, bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn Tu đối với thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Buộc ông Tăng Văn K, bà Mai Thị N, chị Tăng Thị N và anh Tăng Văn Tu giao thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện , tỉnh Tiền Giang do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giao các cây trồng trên đất gồm 10 cây mít loại A, 13 cây mít loại B2, 06 cây mít loại B1, 01 cây dừa loại A cho chị Nguyễn Ngọc Tây được quyền sở hữu.

Buộc ông Tăng Văn K, bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn Tu phải di dời 03 cây mai vàng đường kính 10 cm đến 20 cm ra khỏi phần đất của chị Nguyễn Ngọc Tây T ở thửa đất số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Phần đất ông K, bà N, chị Ng và anh Tu giao lại cho chị T theo trích lục bản đồ địa chính ngày 22/3/2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Cái Bè kèm theo có tứ cận như sau:

+ Hướng Đông: Giáp đường huyện 78B bê tông 7m.

+ Hướng Tây: Giáp đất ông Tăng Văn Lương 4,59m + 2,41m = 7m.

+ Hướng Nam: Giáp đất ông Tăng Văn Khiêm 22,85m.

+ Hướng Bắc: Giáp đất ông Nguyễn Vân Nghĩa 22,30m.

Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Ngọc Tây T giao tiếp số tiền chuyển nhượng còn lại 160.000.000 đồng (Một trăm sáu mươi triệu đồng) cho ông Tăng Văn K, bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn Tu.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Kiến nghị Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy chứng nhận CS05462 thửa số 329, tờ bản đồ số 12, diện tích 157,8m2 tọa lạc tại ấp B, xã , huyện C, tỉnhTiền Giang do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Tiền Giang cấp ngày 11/11/2020 cho chị Tăng Thị Ng đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, để cấp lại cho chị Nguyễn Ngọc Tây T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

Về chi phí tố tụng: Buộc ông Tăng Văn K, bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn T hoàn trả lại chi phí tố tụng cho chị Nguyễn Ngọc Tây T gồm chi phí đo đạc, định giá tài sản và xem xét thẩm định tại chỗ với số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

2. Về án phí: Ông Tăng Văn Kh, bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng và anh Tăng Văn Tu phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Nguyễn Ngọc Tây T phải chịu 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu vào số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004561 ngày 21/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện , tỉnh Tiền Giang, nên xem như chị Thi đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Ngọc Tây T, ông Tăng Văn K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bà Mai Thị N, chị Tăng Thị Ng, anh Tăng Văn Tu, ông Trần Quang V, bà Nguyễn Ngọc L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án tuyên vào lúc 8 giờ 30 phút ngày 15/4/2021 có mặt ông Tr, ông K, Luật sư D; vắng mặt bà N, chị Ng, anh Tu, bà L và ông V

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 42/2021/DS-ST

Số hiệu:42/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;