Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 38/2023/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 38/2023/DS-PT NGÀY 29/05/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 25 và 29 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2023/TLPT-DS ngày 01/02/2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 08/2022/DS-ST ngày 25/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh Phú Thọ bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2023/QĐXX-PT ngày 14/3/2023 và các quyết định hoãn phiên tòa giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Xuân T, sinh năm: 1955. Nơi cư trú: Thôn NQ, xã TK, huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: ông Tạ Hồng C, sinh năm: 1949. Nơi cư trú: Số nhà 75, tổ 6C, khu 1A, phường NT, T2 phố VT, tỉnh Phú Thọ (Có mặt).

Bị đơn: Ông Khuất Dũng Q, sinh năm 1948 (Có mặt).

Nguyễn Thị S, sinh năm 1950 (Có mặt).

Đều có nơi cư trú: Khu 5, xã TV, huyện TT, tỉnh Phú Thọ.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn TT - đại diện là ông Vũ Quang T1 - Giám đốc (Có mặt).

Địa chỉ: khu P, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ.

- Bà Nguyễn Thị Long V, sinh năm: 1975 (Có mặt). Nơi cư trú: khu P, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Long V: Luật sư Nguyễn Duy N và luật sư Nguyễn Thị Bích H thuộc công ty Luật TNHH Hoàng G - Duy N - Đoàn luật sư T2 phố Hà Nội (Có mặt).

Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị S, ông Khuất Duy Q bị đơn, bà Nguyễn Thị Long V người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, những lời trình bày tiếp theo tại Tòa án và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn trình bày:

Cuối năm 2016, đại diện Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn TT, cụ thể là ông Phạm Kim D và ông Vũ Quang T1 có thông tin với ông là Quỹ tín dụng đang có trường hợp là ông Khuất Dũng Q có vay tín dụng bên Quỹ, vì nhiều lý do không trả được số tiền vay, nên bị thu hồi tài sản thế chấp là khu đất tại thị trấn TT và có gợi ý cho ông mua lại với giá là 1.150.000.000 đồng (một tỷ một trăm năm mươi triệu đồng) và bên Quỹ có trách nhiệm làm giấy tờ sang tên cho ông và có nói sẽ chịu chi phí chuyển nhượng. Ông đồng ý mua lại tài sản trên, bản thân ông không biết về thủ tục chuyển nhượng, nên mọi thủ tục do bên Quỹ thực hiện.

Tại thời điểm đó, ông Phạm Kim D, ông Vũ Quang T1 và ông Nguyễn Văn T2 có đến trực tiếp gia đình ông tại khu NQ, xã TK, huyện TS để thu trước số tiền là 150.000.000 đồng (một trăm năm mươi triệu đồng) có ký giấy giao nhận với Quỹ. Số tiền còn lại Quỹ sẽ hỗ trợ cho vay và thế chấp lại bằng chính bìa đất mà ông mua lại.

Ngày 10/12/2016, ông Q, bà S và ông đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và biên bản bàn giao tài sản đất ở và tài sản trên đất, hai bên cũng đã bàn giao tài sản cho nhau nhưng thời điểm đó do ông chưa có tiền trả hết cho Quỹ để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra làm thủ tục chuyển nhượng nên ông Q đã ký giấy uỷ quyền để ông tiếp tục vay vốn bằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Q và ông là người đứng ra trả gốc và lãi.

Năm 2018 là thời điểm đáo hạn tại Quỹ nên ngày 10/9/2018, ông và ông Q, bà S có đến Uỷ ban nhân dân Thị trấn TT thực hiện ký kết hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 63a, tờ bản đồ 05, địa chỉ thửa đất tại khu P, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ với diện tích là 110,0 m2 đất ở. Hợp đồng mua bán đã được Ủy ban nhân dân thị trấn TT chứng thực (được ký bởi ông Trần Phương H2 chủ tịch UBND tại thời điểm đó) và được lập hồ sơ. Do chưa có tiền để trả ngay cho Quỹ tín dụng nên ông Q tiếp tục uỷ quyền cho ông T đứng ra vay vốn và trả tiền gốc và tiền lãi hàng tháng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Q ông có được xem và cầm khi thực hiện mua bán tại UBND thị trấn, sau đó Quỹ tín dụng đã thu lại cùng với hợp đồng bản gốc để làm thủ tục vay tiền mua đất còn thiếu cho ông, và vẫn thống nhất Quỹ tín dụng có trách nhiệm làm hồ sơ chuyển nhượng và chịu toàn bộ chi phí.

Tháng 02/2021, ông đã trả hết toàn bộ số nợ cùng toàn bộ khoản lãi vay từ năm 2018. Ông có lấy bìa đỏ về để thực hiện sang tên, tuy nhiên nhiều lần liên lạc đến ông Vũ Quang T1 đang là giám đốc Quỹ tín dụng đề nghị giải quyết thì chỉ nhận được thông tin không làm được giấy chứng nhận do đang có đơn của bà Nguyễn Thị Long V.Ông nhiều lần nộp hồ sơ lên UBND thị trấn TT nhưng không được giải quyết, thời gian để lâu khi hỏi chỉ nhận được câu trả lời có đơn của bà V mà ông không biết bà V có liên quan gì đến miếng đất trên.

Thời gian giải quyết thủ tục hành chính đã quá lâu, giá đất ngày càng tăng ảnh hưởng rất nhiều đến nghĩa vụ nộp thuế của gia đình với nhà nước. Vì vậy, ông làm đơn này đề nghị Toà án nhân dân huyện TT công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông với vợ chồng ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S đối với thửa đất số 63a, tờ bản đồ số 05 với diện tích 110,0m2 tại Thị trấn Thanh Thuỷ, huyện TT được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số seri S574604 cấp ngày 14/01/2001 để gia đình ông thực hiện chuyển quyền sử dụng đất và làm rõ trách nhiệm của các bên liên quan.

Bị đơn là ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S trình bày:

Khoảng năm 2000-2001, vợ chồng ông bà có mua một mảnh đất của ông Nguyễn Xuân L, sau đó làm nhà ở khu P, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ, số tờ bản đồ 05, Số thửa 63a, diện tích 110m2, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 574604 mang tên Khuất Dũng Q. Năm 2003, con trai ông bà chết, ông bà vẫn để lại cho con dâu là chị Nguyễn Thị Long V và cháu nội ở. Năm 2013 ông bà cần tiền cho con út là anh Khuất Anh Tuấn làm ăn nên có dùng bìa đất để vay tại Quỹ tín dụng nhân dân huyện Thanh Thuỷ cho vợ chồng con út. Đến 2017, do vợ chồng ông bà không trả được tiền vay nên Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Thanh Thuỷ bán ngôi nhà cho ông T qua Quỹ tín dụng (ông bà không được bán mà Quỹ tín dụng đứng ra bán, là trung gian). Ông bà đã ký hợp đồng chuyển nhượng nhà đất cho ông T với số tiền 1.150.000.000 đồng (một tỷ một trăm năm mươi triệu đồng) nhưng qua Quỹ tín dụng. Đất và nhà ở thuộc khu P, thị trấn Thanh Thuỷ đứng tên ông Q nên quyền quyết định thuộc về ông Q. Việc mua bán giữa ông Q, bà S và ông T do Quỹ tín dụng đứng ra làm trung gian bán nên ông bà không có ý kiến gì.

Việc giao nhà, bản thân ông không được gọi đến để giao mà Quỹ tín dụng trực tiếp giao, những đồ đạc trong nhà là Quỹ tín dụng chở lên giao cho gia đình ông bà ở TV. Tài sản nhà đất là của ông bà do đó ông bà nghĩ là có thể tự quyết định cho nên không bàn bạc với các con các cháu. Hiện tại giữa vợ chồng ông bà và ông T không vướng mắc gì về hợp chồng chuyển nhượng đã ký kết. Việc bà V nói có góp 10.000.000 đồng để mua đất chúng ông bà không biết. Quan điểm của ông bà là vẫn nhất trí bán cho ông T như hợp đồng đã ký kết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S đã có bản tự khai bổ sung trình bày lại quan điểm như sau:

Thửa đất tranh chấp là do ông bà mua của ông L, bà Bột từ những năm 1999 - 2000, giá trị mua bán khi đó là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng), trong đó vợ chồng bà V có đóng góp 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Căn nhà cũng do vợ chồng anh chị tự xây, ông Q chỉ ra trông nom hộ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Thanh Thuỷ - Đại diện ông Vũ Quang T1 trình bày:

Năm 2014, ông Q, bà S vay tiền Quỹ tín dụng nhân dân thị trấn Thanh Thuỷ. Tài sản thế chấp là nhà đất ở khu P, thị trấn Thanh Thuỷ, tuy nhiên đến hạn thanh toán nhưng ông bà Q, S không trả được. Tháng 12/2016, Quỹ tín dụng và ông bà Q S có thống nhất theo 2 phương án: Một là Quỹ đứng ra bán tài sản, hai là Quỹ làm trung gian cho các bên (có biên bản thoả thuận). Khi thực hiện thì thực hiện theo phương án 2 (Quỹ tín dụng làm trung gian). Ông Dương Giám đốc Quỹ khi đó có thông tin cho ông Q việc ông T có nhu cầu mua tài sản, ông Q đồng ý. Ông T muốn làm hợp đồng chuyển nhượng ngay, hợp đồng đã được làm ngay tháng 12/2016.

Ngày 16/12/2016, ông Q bà S đã ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất cho ông T, hai bên lập biên bản bàn giao đất ở và nhà ở trên đất cho ông T, có sự tham gia của Quỹ tín dụng, có chứng kiến của Trưởng khu và xác nhận của Ủy ban nhân dân thị trấn TT. Như vậy, Quỹ tín dụng là trung gian bán tài sản cho ông T. Do ông T không làm thủ tục sang tên muốn vay vốn nên ông T đề nghị ông Q viết giấy uỷ quyền tài sản cho ông T tiếp tục vay vốn tại Quỹ tín dụng. Đến tháng 9/2018 ông T và ông Q mới lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa làm được thủ tục ngay nên ông Q vẫn tiếp tục uỷ quyền cho ông T để ông T dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vay tiền tại Quỹ. Năm 2021 ông T đã trả hết gốc và lãi và lấy được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra. Việc mua bán của ông Q, bà S cho ông T hoàn toàn là tự nguyện, Quỹ chỉ có trách nhiệm đứng ra làm trung gian giới thiệu còn không được lợi gì cả.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Long V trình bày:

Ông Q và bà S có vay vốn và thế chấp nhà đất đứng tên ông Q ở khu P, thị trấn TT. Việc vay vốn là có thật và có vay có trả. Việc ông Q muốn giải quyết khoản nợ nên để cho Quỹ tín dụng đứng ra trung gian bán tài sản. Tài sản nhà đất đứng tên ông Q nhưng bà khẳng định đây là tài sản chung của gia đình bà. Do khi mua đất của ông bà Bột L, vợ chồng bà có góp 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Tài sản trên đất là của chung của gia đình gồm: đất nhà và các vật dụng liên quan. Việc bàn giao các tài sản là sai do bà không có mặt và không được thông báo. Việc mua bán giữa ông Q và ông T không có giá trị pháp lý vì là tài sản chung của gia đình nên ông Q không được tự quyết. Quan điểm của bà là muốn lấy lại nhà đất.

5. Ngày 26/8/2022, Tòa án đã tiến hành xác minh nguồn gốc đất, quá trình sử dụng đất thửa đất số 63a, tờ bản đồ số 05 tại khu P, thị trấn TT tại UBND thị trấn TT. Kết quả xác minh thể hiện: Thửa đất số 63a, tờ bản đồ số 05, địa chỉ:

khu P, thị trấn TT là của gia đình ông Nguyễn Xuân L. Năm 2001, ông L chuyển nhượng cho ông Khuất Dũng Q. Hiện tại theo sơ đồ địa chính mới thì là thửa đất số 364, tờ bản đồ số 13, trong quá trình ông Q được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất địa phương không nhận được đơn khiếu nại hay ý kiến của bà Nguyễn Thị Long V.

6.Trong quá trình giải quyết Tòa án đã làm việc với UBND thị trấn TT xác định: Tại sổ chứng thực hợp đồng giao dịch của UBND thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ số 280 ngày 10/9/2018 có chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Khuất Dũng Q, người ký chứng thực là ông Trần Phương Hội - Chủ tịch UBND thị trấn tại thời điểm đó. Việc chứng thực hợp đồng được UBND thị trấn thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.

Ông Trần Phương Hội nguyên là Chủ tịch UBND thị trấn TT -người chứng thực hợp đồng trình bày: Thời điểm ngày 10/9/2018, ông đang là chủ tịch UBND thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ. Khi ông chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Khuất Dũng Q, bà Nguyễn Thị S cho ông Nguyễn Xuân T có mặt cả 3 ông bà là ông Q, bà S và ông T. Việc chứng thực tại bộ phận một của UBND thị trấn Thanh Thuỷ theo đúng quy định của pháp luật.

Xác minh tại sổ chứng thực hợp đồng giao dịch của UBND TT TT: Số 280 ngày 10/9/2018 có chứng thực hợp đồng chuyển nhượng đất giữa ông Nguyễn Xuân T và ông Khuất Dũng Q, bà Nguyễn Thị S, người ký chứng thực là ông Trần Phương Hội - Chủ tịch UBND Thị trấn TT.

7.Ngày 20/10/2022, Tòa án đã tiến hành xác minh, làm việc với ông Nguyễn Xuân L, là người đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S thửa đất số 364, tờ bản đồ số 13 tại khu P TT TT. Ông L trình bày: Năm 2000, ông có bán cho ông Q và bà S thửa đất ở khu P, TT TT, diện tích 110m2, giá trị chuyển nhượng là 20.000.000 đồng, khi bán giao trước 18.000.000 đồng, sau khi làm xong GCNQSD Đất trả nốt 2.000.000 đồng. Tại thời điểm bàn giao tiền có mặt ông Q, bà S, ông Huyên và bà V, tuy nhiên ông nhận tiền từ ông Q, bà S. Sau đó ông Q trả nốt 2.000.000 đồng.

8. Ngày 25/8/2022, Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với nhà đất thuộc thửa đất số 63a, tờ bản đồ số 05, địa chỉ thửa đất thuộc khu P, thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ. Kết quả thẩm định: Thửa đất có tổng diện tích là 142,2m2, trong đó đất đã được cấp GCNQSD đất là 110m2, phần đất phía sau chưa được cấp GCNQSD đất. Trên đất có 01 ngôi nhà 02 tầng, 01 tum (tầng 3 là sân phơi). Cùng ngày, Hội đồng định giá UBND huyện TT định giá: 01 thửa đất có diện tích 110m2 x 25.000.000 đồng/1m2 = 2.750.000.000 đồng, 01 nhà 02 tầng + 1 tum = 425.400.000 đồng. Tổng giá trị nhà và đất 3.175.400.000 đồng. Tại buổi định giá, các bên đương sự thỏa thuận giá là 110m2 đất x 20.000.000 đồng = 2.200.000.000 đồng, ngôi nhà trị giá 210.000.000 đồng. Tổng giá trị nhà và đất là 2.410.000.000 đồng.

Quan điểm của người Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà V: Luật sư Nguyễn Duy N và luật sư Nguyễn Thị Bích H trình bày quan điểm:

+ Hợp đồng chuyển nhượng số 60/2018/HĐCN ngày 10/9/2018 không bảo đảm về mặt hình thức do chỉ chuyển nhượng về đất và không có nhà.

+ Bà V có đóng góp cho ông Q, bà S 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), ông Q, bà S, bà V đã thừa nhận với nhau.

+ Tài sản trên là tài sản hợp pháp của bà V, bà V cho thuê nhà và được hưởng tiền cho thuê nên tài sản trên là tài sản chung giữa bà V, ông Q, bà S.

+ Hợp đồng chuyển nhượng số 60/2018/HĐCN ngày 10/9/2018 vô hiệu cả về mặt hình thức và nội dung. Đề nghị bác yêu cầu của Nguyên đơn, buộc trả lại nhà đất cho gia đình bà V.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 08/2022/DS-ST ngày 25/12/2022, Tòa án nhân dân (TAND) huyện TT đã quyết định Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 147; khoản 2 Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng: Điều 116,117, 118, 119, 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự, Điều 166, 167 Luật đất đai năm 2013.

Căn cứ: Điểm đ, khoản 1, Điều 12; điểm a khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T, công nhận Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất số 60/2018/HĐCN ngày 10/9/2018 giữa ông Khuất Dũng Q, bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Xuân T, đối với thửa đất số 63A, tờ bản đồ 05, diện tích 110m2 tại khu P, thị trấn TT lập tại UBND thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ là hợp pháp.

Xác nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất giữa ông Khuất Dũng Q, bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Xuân T là hợp pháp.

2. Buộc ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S phải có nghĩa vụ thực hiện các điều khoản trong hợp đồng để ông T đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Ông T có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và nhà ở theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, chi phí tố tụng, quyền yêu cầu thi hành án và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Ngày 30/11/2022 bà Nguyễn Thị S và ông Khuất Dũng Q; ngày 04/12/2022 bà Nguyễn Thị Long V kháng cáo không đồng ý với bản án sơ thẩm đề nghị tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử hủy bản án sơ thẩm số:

08/2022/DS-ST ngày 25/12/2022, Tòa án nhân dân (TAND) huyện TT do vi phạm cả về thủ tục tố tụng và nội dung.

Các căn cứ bà V đưa ra đề nghị hủy bản án sơ thẩm số: 08/2022/DS-ST ngày 25/12/2022 của Tòa án nhân dân (TAND) huyện TT gồm:

Thửa đất tranh chấp là tài sản chung của bà V, chồng bà V nhưng ông Q, bà S tự ý lập hợp đồng chuyển nhượng mà không có ý kiến của bà V và các con bà V là trái pháp luật.

Thửa đất tranh chấp là tài sản chung của bà S, ông Q và vợ chồng bà V, chồng bà V đã chết, tuy nhiên tòa án không đưa con của vợ chồng bà V là cháu L tham gia tố tụng là không đảm bảo quyền lợi cho cháu L.

Tòa án án nhân dân huyện TT không thụ lý đơn yêu cầu độc lập của bà V là vi phạm thủ tục tố tụng.

Các căn cứ bà S, ông Q đưa ra đề nghị hủy bản án sơ thẩm số: 08/2022/DS- ST ngày 25/12/2022 của Tòa án nhân dân (TAND) huyện TT gồm:

Thửa đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng tôi và vợ chồng bà V, chồng bà V đã chết, tuy nhiên khi ký hợp đồng thế chấp chúng tôi không bàn bạc với bà V, cháu L là không đúng quy định của pháp luật.

Vợ chồng chúng tôi chưa bao giờ đến UBND thị trấn ký hợp đồng chuyển nhượng đất mà ký hợp đồng chuyển nhượng do ngân hàng mang đến nhà và ký tại nhà.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Ông Q, bà S, bà V giữ nguyên kháng cáo và những căn cứ kháng cáo. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà V trình bày bổ sung các căn cứ kháng cáo cho rằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký kết giữa ông T với ông Q, bà V có vi phạm về hình thức cũng n hư nội dung như hợp đồng ký có sự sửa chữa năm ký hợp đồng. Hợp đồng chuyển nhượng số 60/2018/HĐCN ngày 10/9/2018 không bảo đảm về mặt hình thức do chỉ chuyển nhượng về đất và không có nhà. Bà V có đóng góp cho ông Q, bà S 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), ông Q, bà S, bà V đã thừa nhận với nhau. Tài sản trên là tài sản hợp pháp của bà V, bà V cho thuê nhà và được hưởng tiền cho thuê nên tài sản trên là tài sản chung giữa bà V, ông Q, bà S.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của bà S, ông Q, bà V giữ nguyên bản án sơ thẩm của TAND huyện TT.

(Chi tiết tại bài phát biểu của Kiểm sát viên lưu hồ sơ vụ án).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên;

Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bà Nguyễn Thị S, ông Khuất Duy Q, bà Nguyễn Thị Long V trong hạn luật định, đơn hợp lệ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Nội dung kháng cáo trong phạm vi xét xử của bản án sơ thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét nội dung này theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung kháng cáo: Ông Q, bà S, bà V kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm số: 08/2022/DS-ST ngày 25/12/2022 của Tòa án nhân dân (TAND) huyện TT xét xử lại với các căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy: Đối với yêu cầu kháng cáo của bà V cho rằng TAND huyện TT không thụ lý đơn yêu cầu độc lập của bà là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Trong hồ sơ vụ án thể hiện bà Nguyễn Thị Long V có đơn yêu cầu độc lập gửi đến Toà án ngày 05/9/2022 tuy nhiên bà V nộp đơn tại thời điểm sau khi Tòa án đã 2 lần mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, vì vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án không chấp nhận thụ lý yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Long V là đúng quy định của pháp luật.

Đối với yêu cầu đề nghị xác định thửa đất số 364, tờ bản đồ số 13, diện tích 110m2 tại khu P, thị trấn TT nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Xuân L từ năm 2000 là tài sản chung của ông Q, bà S và vợ chồng bà V. Hội đồng xét xử nhận định: Hợp đồng chuyển nhượng ngày 06/10/2000 ghi bên chuyển nhượng ông Nguyễn Văn L, bên nhận chuyển nhượng ông Khuất Duy Q và bà Nguyễn Thị S, trong hồ sơ chuyển nhượng người nộp thuế chước bạ và thuế chuyển quyền sử dụng đất đều do ông Q đứng tên nộp, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông Khuất Dũng Q ngoài ra trong hồ sơ chuyển nhượng không có bất cứ tài liệu, chứng cứ nào thể hiện thửa đất tranh chấp, năm 2000 ông L chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Q, bà S trong đó có quyền sử dụng chung của vợ chồng bà V.

Ngoài ra Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng thửa đất trên cho quỹ tín dụng nhân dân huyện TT đảm bảo cho khoản vay của ông Q, bà S cũng chỉ có chữ ký duy nhất của ông Q, bà S.

Quá trình giải quyết vụ án bà V cho rằng thửa đất trên khi ông Q, bà S mua của ông L giá 22.000.000đồng, trong đó vợ chồng ông bà có đóng góp số tiền 10.000.000 đồng. Tuy nhiên, ông L thừa nhận bán cho ông Q, bà S giá 20.000.000đồng, lần 1 nhận của ông Q, bà S 18.000.000đồng và sau đó ông Q trả nốt 2.000.000đồng, trong hợp đồng chuyển nhượng ghi gía đất hai bên chuyển nhượng là 6.000.000đồng. Về mặt pháp lý hợp đồng chuyển nhượng là căn cứ pháp lý xác định giá hai bên mua bán, chuyển nhượng. Như vậy, giá hai bên mua bán, chuyển nhượng là 6.000.000đồng mà bà V khai đưa cho ông Q, bà S 10.000.000đồng để mua đất của ông L là không có căn cứ. Bà V không đưa ra được bất kỳ chứng cứ nào thể hiện có việc góp tiền mua thửa đất của ông bà Bột, L chỉ đưa ra duy nhất 02 hợp đồng cho thuê nhà năm 2013 và 2015 do bà là người trực tiếp ký đứng tên bên thuê. Tuy nhiên, hợp đồng thuê nhà không phải đủ căn cứ pháp lý để xác định vợ chồng bà V có phần trong quyền sử dụng thửa đất và tài sản trên đất. Ông Q khai chỉ cho vợ chồng bà V về ở chứ chưa tuyên bố cho. Bà V không đưa ra được bất cứ tài liệu, chứng cứ pháp lý nào thể hiện có việc vợ chồng bà V đưa cho ông Q, bà S số tiền trên. Nên không có cơ sở pháp lý xác định thửa đất số 63A, tờ bản đồ 05 nay là thửa đất số 364, tờ bản đồ số 13, diện tích 110m2 tại khu P, thị trấn TT có phần quyền của vợ chồng bà V. Vợ chồng bà V không có quyền lợi gì đối với thửa đất trên, do vậy cấp sơ thẩm không đưa cháu L là con của vợ chồng bà V vào tham gia tố tụng trong vụ án là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.

Tại bản tự khai ban đầu ngày 6/5/2022 ông Q, bà S trình bày thửa đất trên là do ông, bà mua của ông L, bà Bột với giá 22.000.000đồng, toàn bộ số tiền mua đất là của vợ chồng ông, bà bỏ ra mua, thiếu ông bà vay của bố mẹ là cụ Khuất Đình Chi. Sau khi mua xong ông, bà xây nhà trên đất, ông bà xác định toàn bộ đất và tiền xây nhà là của vợ chồng ông, bà, các con không con nào phải bỏ tiền ra để làm cùng bố, mẹ. Ông bà cũng chưa tuyên bố cho con nào. Tuy nhiên, sau đó ông Q thay đổi lời khai cho rằng có việc vợ chồng bà V góp số tiền 10.000.000đồng mua chung thửa đất của ông L. Ông Q thay đổi lời khai, nhưng không đưa ra được lý do thay đổi cũng như căn cứ pháp lý. Do vậy, xác định lời khai ban đầu ngày 6/5/2022 của ông Q là lời khai chính xác vì phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Q, bà S với ông T có một chút sai sót về hình thức, nhưng hợp đồng mua bán, chuyển nhượng giữa hai bên là hoàn toàn tự nguyện ông T sau khi mua đất của ông Q, bà S đã thanh toán hết tiền cho ông Q, bà S. Mặc dù, trong hợp đồng không ghi chuyển nhượng tài sản trên đất. Tuy nhiên, có biên bản giao nhà ký kết giữa ông T và ông Q. Ông T đã được nhận bàn giao cả nhà, đất và gia đình ông T đã chuyển về ở đó . Đồng nghĩa với việc gia đình ông Q chuyển nhượng cho ông T cả đất và tài sản trên đất. Do vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Q, bà S với ông T là phù hợp với quy định của pháp luật, nên toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ đúng pháp luật, đồng nghĩa với yêu cầu kháng cáo của bà V, ông Q, bà S không có cơ sở pháp lý nên không được chấp nhận.

[3] Về án phí phúc thẩm: Bà V kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm, kháng cáo của ông Q, bà S không được chấp nhận, ông Q, bà S phải chịu án phí phúc thẩm, nhưng ông Q, bà S thuộc trường hợp miễn án phí.

Bản án sơ thẩm có một số sai sót như quyết định của bản án ghi thửa đất số 63A, nhưng chính xác là thửa đất số 63a. Thửa đất này nay đã được chuyển T2 thửa đất số 364, tờ bản đồ số 13, nhưng quyết định của bản án vẫn ghi thửa đất số 63A, tờ bản đồ số 05. Những sai sót này không nghiêm trọng nên chỉ cần rút kinh nghịệm đối với cấp sơ thẩm.

Luật sư bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bà V cho rằng bản án sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đề nghị toà án cấp phúc chấp nhận đơn kháng cáo của và V, huỷ bản án sơ thẩm số: 08/2022/DS-ST ngày 25/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện TT, tuy nhiên những căn cứ pháp lý luật sư đưa ra không đủ để chấp nhận kháng cáo của bà V.

Quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của bà V, ông Q, bà S. Giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp với pháp luật nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của ông Khuất Duy Q, bà Nguyễn Thị S và bà Nguyễn Thị Long V. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số: 08/2022/DS-ST ngày 25/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện TT, tỉnh Phú Thọ.

Căn cứ vào: Khoản 1, Điều 147; khoản 2 Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 116,117, 118, 119, 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân sự, Điều 166, 167 Luật đất đai năm 2013; điểm đ, khoản 1, Điều 12; điểm a khoản 3 Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Xuân T. Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng Quyền sử dụng đất số: 60/2018/HĐCN ngày 10/9/2018 ký kết giữa ông Khuất Dũng Q, bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Xuân T đối với thửa đất số 63a, tờ bản đồ 05 (nay là thửa đất số 364, tờ bản đồ số 13), diện tích 110m2 , sơ đồ hình 3,4,5,6,3 (Có sơ đồ đo vẽ kèm theo) tại : khu P, thị trấn TT , huyện TT, tỉnh Phú Thọ lập tại UBND thị trấn TT, huyện TT, tỉnh Phú Thọ là hợp pháp.

Xác nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhà ở trên đất giữa ông Khuất Dũng Q, bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Xuân T là hợp pháp.

2. Buộc ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S phải có nghĩa vụ thực hiện các điều khoản trong hợp đồng để ông T đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Ông T có trách nhiệm liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất và nhà ở theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí:

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Khuấ Duy Q và bà Nguyễn Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, nhưng do ông bà là người cao tuổi nên được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Long V phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự phúc thẩm. Xác nhận đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0006135 ngày 19/01/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TT.

Ông Khuất Dũng Q và bà Nguyễn Thị S thuộc trường hợp miễn án phí phúc thẩm.

4. Về chi phí tố tụng: Xác nhận ông T tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng đã nộp theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án, cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Các quyết định khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 38/2023/DS-PT

Số hiệu:38/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;