TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA SÚP, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 28 tháng 09 năm 2022 tại phòng xử án Toà án nhân dân huyện Ea Súp, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 226/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 07 năm 2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 08 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toàn số: 42/2022/QĐST-DS ngày 13 tháng 09 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hà Thị L – SN: 1988 Địa chỉ: Thôn L, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).
Bị đơn: Anh Hà Văn S – SN: 1984 Địa chỉ: Thôn L, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 25/07/2022, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, và lời khai tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Hà Thị L trình bày: Chị L và anh Hà Văn S tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2009, nhưng đến năm 2012 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 27/03/2012. Trong thời gian đầu vợ chồng anh, chị chung sống với nhau hạnh phúc và đã có với nhau 02 con chung Hà Thị T, Hà Văn Th nhưng thời gian gần đây anh, chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp và bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, dẫn đến cãi nhau, anh S thường uống rượu, say xỉn về chửi vợ, con, không làm việc kiếm thu nhập để phụ giúp chị. Nay chị thấy tình cảm giữa chị và anh Hà Văn S không còn, nếu cứ kéo dài hôn nhân sẽ không có hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hà Văn S.
Về con chung: Chị và anh Hà Văn S không có con nuôi, con riêng, anh chị chỉ có 02 con chung Hà Thị T – SN: 05/01/2009, Hà Văn Th – SN: 08/12/2011. Nay ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được nuôi 02 cháu cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh Hà Văn S phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản, công nợ: Chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Hà Văn S, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập thông qua UBND xã I, niêm yết thông báo tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa tại UBND xã I, tại nhà anh Hà Văn S và tại Tòa án huyện Ea Súp tuy nhiên anh S đều vắng mặt tại Tòa án không lý do. Do vậy anh S không thể hiện quan điểm của mình trong vụ án.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 29 tháng 08 năm 2022 nguyên đơn đã được tiếp cận, thống nhất với chứng cứ đã được công khai và không thay đổi bổ sung đơn khởi kiện hay nộp chứng cứ gì mới, không yêu cầu triệu tập đương sự khác đến tham gia phiên tòa.
Tại phiên tòa bị đơn vắng mặt, nguyên đơn không có ý kiến tranh luận gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea Súp phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã tuân theo đúng các quy định tại các Điều 28, 35, 39, 68, 96, 97, 98, 175, 176, 197, 198, 204 và 220 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.
Về chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định Bộ luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự, bị đơn Tòa án đã tiến hành niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, tuy nhiên bị đơn vẫn vắng mặt.
Về nội dung vụ án: Căn cứ các Điều 51, 53, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ hôn nhân chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hà Thị L, xử cho chị Hà Thị L được ly hôn với anh Hà Văn S, về con chung giao con chung Hà Thị T, Hà Văn Th cho chị Hà Thị L nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, chấp nhận sự tự nguyện của chị L không yêu cầu anh Hà Văn S phải cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Hà Thị L khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Hà Văn S có nơi cư trú thôn L, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, đây là quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Ea súp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục: Đối với bị đơn anh Hà Văn S trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập thông qua UBND xã I và ban tự quản thôn là ông Hà Văn S1, niêm yết thông báo tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa tại UBND xã I, tại nhà anh Hà Văn S và tại Tòa án huyện Ea Súp đồng thời liên hệ qua số điện thoại của anh S, tuy nhiên anh S không hợp tác, không có mặt tại Tòa án. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử, xử vắng mặt.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử nhận thấy chị Hà Thị L và anh Hà Văn S tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 27 tháng 03 năm 2012 đúng theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa chị Hà Thị L và anh Hà Văn S là hợp pháp. Trong thời gian chung sống chị L và anh S nảy sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân là do anh, chị tính tình không hợp, nhất là vấn đề tình cảm, anh S thường uống rượu, say xỉn chửi mắng vợ con, không làm việc kiếm thêm thu nhập để phụ giúp gia đình, không quan tâm con cái, không có trách nhiệm với gia đình. Xét tình cảm, hạnh phúc của chị L và anh S không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận đơn khởi kiện của chị L, xử cho chị Hà Thị L được ly hôn với anh Hà Văn S.
[4] Về con chung: Chị Hà Thị L và anh Hà Văn S không có con nuôi, con riêng, anh chị có 02 con chung Hà Thị T – SN: 05/01/2009, Hà Văn Th – SN: 08/12/2011. Quá trình Tòa án giải quyết anh Soan không hợp tác không có quan điểm về việc nuôi con. Nay chị L có nguyện vọng nuôi con, xét yêu cầu nuôi con của chị L, nhận thấy quá trình xác minh chính quyền địa phương cho biết về điều kiện nuôi con của chị L và Anh S thì anh S thường xuyên uống rượu say xỉn về chửi vợ con, không chịu lao động nên không có thu nhập. Đối với chị L chịu khó lao động, có thu nhập, có nơi cư trú ổn định nên có khả năng nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con tốt hơn anh S và cũng là theo nguyện vọng của các cháu muốn ở với mẹ nên Hội đồng xét xử không có cơ sở để giao con chung cho anh S nuôi dưỡng mà cần chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Hà Thị L, giao cháu Hà Thị T, Hà Văn Th cho chị L nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con, chị L không yêu cầu anh Hà Văn S cấp dưỡng nuôi con nên anh Hà Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con. [5] Về tài sản và công nợ: Chị L và anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[6] Về án phí: Xét thấy chị Hà Thị L thuộc diện hộ nghèo, có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án. Miễn án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm cho chị L.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 235, 266, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Hà Thị L, xử cho chị Hà Thị L được ly hôn với anh Hà Văn S.
Về con chung: Giao 02 cháu Hà Thị T – SN: 05/01/2009, Hà Văn Th – SN:
08/12/2011cho chị Hà Thị L nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Chị L không được quyền ngăn cản anh Hà Văn S đến thăm nom chăm sóc con chung.
Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Hà Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị L và anh S có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Về tài sản, công nợ: Chị Hà Thị L và anh Hà Văn S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Miễn án phí ly hôn gia đình sơ thẩm cho chị Hà Thị L.
Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 18/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 18/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea Súp - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về