Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 66/2022/HNGĐST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 66/2022/HNGĐST NGÀY 24/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lô Văn H. Sinh năm: 1984.

Trú tại: Bản LM, xã CH, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Lữ Thị C. Sinh năm: 1987.

Trú tại: Bản LM, xã CH, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/4/2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Lô Văn H trình bày: Anh và chị Lữ Thị C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 25 tháng 4 năm 2016 tại UBND xã CH, huyện Qùy Châu, tỉnh Nghệ An. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên sau khi kết hôn chị C đã đi làm thuê ở xa. Thời gian đầu thì vợ chồng vẫn thường xuyên liên lạc và chị C cũng quan tâm đến gia đình. Tuy nhiên, từ đầu năm 2017 cho đến nay anh không còn liên lạc được với chị C và vợ chồng cũng đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, quan hệ vợ chồng không còn tình cảm và không còn hạnh phúc. Vì vậy, anh H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Lữ Thị C.

Về quan hệ con cái: Anh Lô Văn H và chị Lữ Thị C có hai người con chung là cháu Lô Thị Thảo V, sinh ngày 23/01/2007 và Lô Quốc A, sinh ngày 22/11/2008. Nếu ly hôn, anh H xin nhận nuôi dưỡng, chăm sóc cả hai con chung và không yêu cầu chị Lữ Thị C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ngoài ra, hai người không nhận nuôi con nuôi và không ai có con riêng.

Về tài sản: Anh Lô Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản.

Sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải cho chị Lữ Thị C. Tuy nhiên, chị C không có mặt tại Tòa án để tham gia giải quyết vụ án. Qua xác minh tại UBND xã CH được biết, sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, các Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải thì cán bộ UBND xã CH đã thực hiện việc tống đạt cho chị Lữ Thị C nhưng không được. Xác minh tại Ban công an xã CH được biết, chị Lữ Thị C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản LM, xã CH, huyện Qùy Châu, tỉnh Nghệ An. Hiện nay, chị C không có mặt tại địa phương. Xác minh tại mẹ đẻ của chị C (Bà Vi Thị B) được biết: Hiện nay chị C đang đi làm thuê tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nhưng bà B cũng không biết địa chỉ cụ thể của chị C. Quá trình giải quyết vụ án và chuẩn bị xét xử, cán bộ Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã tiến hành niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, cháu Lô Thị Thảo V và cháu Lô Quốc A trình bày nếu bố mẹ ly hôn thì có nguyện vọng được ở với bố.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không có mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Cho anh H được ly hôn chị Lữ Thị C; giao hai con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Lữ Thị C. Áp dụng điều 147 BLTTDS, buộc anh H phải chịu án phí DSST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa anh Lô Văn H và chị Lữ Thị C là “Ly hôn”. Vì vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 1 điều 28 và điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS.

[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Lô Văn H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; chị Lữ Thị C không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Đây là lần thứ hai Tòa án mở phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Xét thấy, bị đơn không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, căn cứ vào các điểm a, b khoản 2 điều 227 và các khoản 1, 3 Điều 228 BLTTDS; điểm a khoản 2 điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Lô Văn H và chị Lữ Thị C.

[2] Về nội dung:

[2.1] Quan hệ tình cảm: Hôn nhân giữa anh Lô Văn H và chị Lữ Thị C được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có đăng ký kết hôn phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình chung sống thì giữa hai người đã xảy ra mâu thuẫn, nay anh H nhất quyết ly hôn. Thấy rằng, hôn nhân của anh H và chị C không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu của anh Hoài, cho anh Hoài được ly hôn với chị Lữ Thị Cúc, điều này là phù hợp với thực tế cuộc sống và cũng là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Quan hệ con cái: Vợ chồng có hai người con chung, ngoài ra không ai có con riêng và không nhận nuôi con nuôi. Qúa trình giải quyết vụ án, anh H đề nghị được nuôi cả hai con chung và không yêu cầu chị C phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Theo lời khai của cháu V và cháu Quốc A thì nếu bố mẹ ly hôn hai cháu có nguyện vọng được ở với bố. Thấy rằng, việc giao con chung chưa thành niên cho ai nuôi dưỡng, chăm sóc sau khi ly hôn phải xuất phát từ quyền lợi của người con được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất về mọi mặt. Xét thấy, anh H có sức khỏe, có công việc và thu nhập ổn định. Bên cạnh đó, chị C hiện nay không có mặt tại địa phương và không xác định được địa chỉ nơi chị C tạm trú và làm việc. Do đó, chấp nhận yêu cầu của anh Lô Văn H, giao hai con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Lữ Thị C.

[2.3] Quan hệ tài sản: Anh Lô Văn H không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Vì vậy, nên miễn xét.

[3] Về án phí: Cần buộc anh Lô Văn H phải chịu án phí DSST về ly hôn.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; các điểm a, b khoản 2 Điều 227; các khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu của anh Lô Văn H. Cho anh H được ly hôn với chị Lữ Thị C.

2. Về con cái:

- Giao các con chung là Lô Thị Thảo V, sinh ngày 23/01/2007 và Lô Quốc A, sinh ngày 22/11/2008 cho anh Lô Văn H chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi các con chung trưởng thành.

- Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Lữ Thị C.

- Chị Lữ Thị C có quyền đi lại, thăm nom và giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Lô Văn H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006343 ngày 07 tháng 4 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu. Anh H đã nộp đủ án phí DSST.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Lô Văn H và chị Lữ Thị C có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 66/2022/HNGĐST

Số hiệu:66/2022/HNGĐST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;