Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 17/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện QV, Tỉnh BN mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” thụ lý số 198/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐST- HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Cao Thị H, sinh năm 1972 (Vắng mặt) SQ: Thôn LT, xã ĐX, huyện QV, tỉnh BN HKTT: Thôn TT, xã VT, huyện QV, tỉnh BN

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1972 (Vắng mặt) HKTT: Thôn TT, xã VT, huyện QV, tỉnh BN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Cao Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn S được tự nguyện tìm hiểu và được hai gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương vào ngày 19/10/1990. Thời điểm tổ chức lễ cưới, do anh S chưa đủ tuổi kết hôn nên anh chị đã không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới, anh chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc, ổn định nên thời gian sau anh, chị cũng không đi đăng ký kết hôn. Đến năm 2003, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, cách sống. Anh S không chung thủy mà có những mối quan hệ bên ngoài nên không còn quan tâm đến gia đình và tu trí làm ăn. Anh S thường thiếu tôn trọng và hay đánh đập chị. Sau một thời gian như vậy, mặc dù đã được nhiều người khuyên nhưng anh S không thay đổi dẫn đến cuộc sống không còn hạnh phúc, không thể hòa hợp nên anh, chị đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, giữa chị và anh S không có biện pháp nào đoàn tụ. Nay chị nhận thấy tình cảm giữa chị và anh S đã hết, không còn khả năng đoàn tụ nên chị mong muốn được chấm dứt quan hệ hôn nhân với anh S. Do từ khi chị và anh S chung sống cùng nhau đến nay chưa có đăng ký kết hôn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố không công nhận chị và anh Nguyễn Văn S là vợ chồng.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị và anh S có sinh được 02 con chung là Nguyễn Văn H2, sinh năm 1993 và Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1998. Hiện hai con chung của anh chị đã trưởng thành và có gia đình riêng nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt giấy báo cho anh S thông qua mẹ đẻ của anh S là bà Nguyễn Thị M nhưng anh Nguyễn Văn S vắng mặt.

Bà Nguyễn Thị M là mẹ đẻ anh S cho biết:

Năm 1990, bà có tổ chức lễ cưới cho anh Nguyễn Văn S kết hôn với chị Cao Thị H theo phong tục tập quán địa phương. Trước khi cưới, chị H và anh S được tự nguyện tìm hiểu nhưng không đăng ký kết hôn tại UBND xã VT do lúc đó anh S chưa đủ tuổi kết hôn.

Anh S và chị H chung sống hòa thuận được thời gian đầu, sau đó nẩy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân, do những bất đồng về quan điểm sống, anh S không quan tâm đến gia đình, chăm lo cho con cái. Nhiều năm nay, anh S và chị H mỗi người sống một nơi. Anh S đi làm ăn nên không hay có mặt ở nhà. Tuy nhiên, anh S vẫn liên lạc về với gia đình.

Ngày 18/5/2022, bà có nhận được thông báo của Tòa án nhân dân huyện QV gửi cho anh S về việc giải quyết việc Hôn nhân và gia đình giữa anh S và chị H. Bà đã thông báo đến cho anh S và chị H nhưng anh S và chị H đều nói là không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa và đề nghị giải quyết ly hôn theo quy định. Anh S cũng nói với bà là đang làm ăn ở xa không về để giải quyết được nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Anh cũng có nguyện vọng chấm dứt quan hệ hôn nhân với chị H.

Theo ý kiến của bà, anh S và chị H thực tế chung sống với nhau được một thời gian ngắn còn chủ yếu mỗi người một nơi. Thời gian trước anh chị đã làm thủ tục ly hôn nhưng sau đó lại thôi. Cả anh S và chị H đều xác định không thể chung sống cùng nhau và đều có nguyện vọng chấm dứt quan hệ hôn nhân nên bà đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của anh S và chị H.

Cho đến thời điểm hiện tại, bà được biết anh S và chị H vẫn chưa có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị H và anh S có sinh được 02 con chung là Nguyễn Văn H2, sinh năm 1993 và Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1998. Hiện hai cháu đã trưởng thành và có gia đình riêng nên giải quyết thế nào là do anh S và chị H quyết định.

Về tài sản, công nợ, công sức của anh S và chị H thì bà cho rằng để anh chị tự giải quyết.

Đối với các thông báo của Tòa án gửi cho anh S, bà cam đoan sẽ báo lại với anh S.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương và xác định được thực trạng hôn nhân giữa chị Cao Thị H và anh Nguyễn Văn S như sau:

Do khách quan, hiện nay xã VT không còn lưu giữ được các sổ ghi chép việc đăng ký kết hôn của công dân trên địa bàn xã từ năm 1999 trở về trước nên không xác định được việc chị H và anh S có đăng ký kết hôn hợp pháp hay không.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh S đều không có mặt nên Tòa án không tiến hành phiên họp và hòa giải được.

Tại phiên toà hôm nay chị Cao Thị H vắng mặt nhưng đã có đơn xin được xét xử vắng mặt với nội dung giữ nguyên yêu cầu giải quyết xác định chị và anh S không pH2 là vợ chồng.

Đại diện VKSND huyện QV tham gia phiên toà nhận xét:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết: Khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật n nhân gia đình năm 2000; Các Điều 147, 227, 228, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 5 điều 27 Ngh quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016, đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Cao Thị H.

Xử: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Cao Thị H và anh Nguyễn Văn S.

- Về con chung: Hiện các con của anh chị đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Cao Thị H pH2 nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập phiên tòa lần 2 nhưng anh S đều vắng mặt không có lý do. Tại phiên tòa, chị Cao Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo lời khai của đương sự, lời trình bày của mẹ anh S là bà Nguyễn Thị M và kết quả xác minh trên thực tế cho thấy: Chị Cao Thị H và anh Nguyễn Văn S được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán địa phương vào năm 1990. Thời điểm đó, do anh S chưa đủ tuổi kết hôn nên anh chị không làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.

Cũng theo chị H, đến khi anh S đủ tuổi kết hôn nhưng do cuộc sống chung hạnh phúc, ổn định nên anh chị không đi đăng ký kết hôn và từ năm 2003 đến nay do vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên mỗi người sống một nơi và càng không nghĩ đến việc đăng ký kết hôn nữa. Mặc dù, hiện nay địa phương không lưu giữ được sổ theo dõi việc đăng ký kết hôn trên địa bàn từ năm 1999 trở về trước nên không có căn cứ xác định về mặt pháp lý để khẳng định anh chị không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, bản thân chị H xác định việc chị và anh S từ khi chung sống với nhau đến nay chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn là đúng và việc này được mẹ anh S là bà Nguyễn Thị M xác nhận nên cần xác định chị Cao Thị H và anh Nguyễn Văn S đến thời điểm hiện tại không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là có cơ sở.

Việc chị H và anh S không thực hiện các quy định của pháp luật khi chung sống với nhau mà không đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền là vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình. Xét đơn khởi kiện của chị H yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị và anh Nguyễn Văn S là có cơ sở. Do đó, để anh chị sớm ổn định cuộc sống, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 9, Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Cao Thị H và anh Nguyễn Văn S là phù hợp.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống, anh S và chị H có sinh được 02 con chung là Nguyễn Văn H2, sinh năm 1993 và Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1998. Hiện hai con chung của anh chị được xác định đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức: Đương sự không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về án phí : Chị Cao Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 14, Điều 15, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; Các Điều 147, 227, 228, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thương vụ Quốc Hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Cao Thị H.

Tuyên bố không công nhận chị Cao Thị H và anh Nguyễn Văn S là vợ chồng.

- Về con chung: Không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không đề cập giải quyết.

- Án phí: Chị Cao Thị H pH2 chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2021/0005115 ngày 16/5/2022 của Chi cục THA dân sự huyện QV, tỉnh BN.

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;