TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 29/2022/HNGĐST NGÀY 23/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 23 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 19/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lô Thị H. Sinh năm: 1983.
Trú tại: Bản Đ2, xã CP, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Hà Đức X. Sinh năm: 1981.
Trú tại: Bản Đ2, xã CP, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Tạm trú: Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/02/2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lô Thị H trình bày: Chị Lô Thị H và anh Hà Đức X kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định tại UBND xã CH, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An vào ngày 10/3/2005. Sau khi kết hôn thì chỉ chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian ngắn, sau đó thì anh X đã có hành vi vi phạm pháp luật và phải đi chấp hành án cải tạo. Sau khi anh X đi cải tạo về thì hai người chung sống với nhau đến năm 2019 thì xảy ra mâu trầm trọng nên đã sống ly thân và chị H bỏ về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ. Vào tháng 11/2021, anh X lại tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật và hiện nay đang bị bắt tạm giam. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, quan hệ vợ chồng không còn tình cảm và không còn hạnh phúc. Vì vậy, chị H làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Hà Đức X.
Về quan hệ con cái: Chị Lô Thị H và anh Hà Đức X có hai con chung là cháu Hà Bá Đ, sinh ngày 03/02/2006 và cháu Hà Liêng K, sinh ngày 14/10/2008. Nếu ly hôn thì chị H đề nghị được giao nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh X phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra, hai người không nhận nuôi con nuôi và không ai có con riêng.
Về tài sản: Chị H và anh X không có tài sản chung, không vay của ai hay cho ai vay tài sản gì. Vì vậy, chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản.
Quá trình giải quyết vụ án, cán bộ Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã trực tiếp ghi lời khai của anh Hà Đức X, anh X trình bày như sau: Anh X đồng ý với chị H về thời gian, địa điểm tổ chức kết hôn và tình trạng pháp lý hiện nay của anh X. Sau khi hai người sống ly thân từ năm 2019 thì không quan tâm, chăm sóc gì đến nhau nữa và từ tháng 11/2021, anh X bị bắt tạm giam về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Nay chị H có đơn yêu cầu giải quyết ly hôn thì anh đồng ý. Anh X đồng ý với yêu cầu của chị H về việc giao hai con chung cho chị H nuôi dưỡng và anh X xin tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Ngoài ra, anh X và chị H không có tài sản chung, không cho ai vay và cũng không vay nợ của ai tài sản gì. Vì vậy, anh X không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Anh Hà Đức X cũng yêu cầu Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt vì hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An.
Quá trình giải quyết vụ án, hai con chung của chị Lô Thị H và anh Hà Đức X - Cháu Hà Bá Đ và cháu Hà Liêng K đều trình bày: Nếu bố mẹ ly hôn thì do hiện nay bố đang đi tù nên muốn ở với mẹ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Cho chị H được ly hôn với anh X; giao hai con chung là Hà Bá Đ và Hà Liêng K cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh X. Áp dụng điều 147 BLTTDS, buộc chị H phải chịu án phí DSST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa chị Lô Thị H và Hà Đức X là “Ly hôn”. Vì vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 1 điều 28 và điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS.
[1.2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Lô Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Hà Đức X hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Qúa trình thu thập chứng cứ thì anh X có yêu cầu Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh X.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quan hệ tình cảm: Hôn nhân giữa chị Lô Thị H và anh Hà Đức X được xác lập trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có đăng ký kết hôn phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình chung sống thì giữa hai người đã xảy ra mâu thuẫn, anh X không có ý thức chăm lo xây dựng hạnh phúc gia đình mà lại sa vào con đường phạm tội, nay đang bị tạm giam. Thấy rằng, hôn nhân của chị H - anh X không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu của chị Hương, cho chị Lô Thị H được ly hôn với anh Hà Đức X, điều này là phù hợp với thực tế cuộc sống, ý chí của hai người và cũng là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[2.2] Quan hệ con cái: Vợ chồng có hai người con chung, ngoài ra không ai có con riêng và không nhận nuôi con nuôi. Quá trình giải quyết vụ án chị H đề nghị nếu ly hôn thì chị xin nhận nuôi dưỡng, chăm sóc con chung và không yêu cầu anh X có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Theo lời khai của hai con chung thì nếu bố mẹ ly hôn có nguyện vọng được ở với mẹ. Thấy rằng, việc giao con chung chưa thành niên cho ai nuôi sau khi vợ chồng ly hôn là xuất phát từ quyền lợi của người con được nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất về mọi mặt. Xét thấy, bản thân chị H có sức khỏe, có nhận thức và có công việc ổn định để nuôi con; bên canh đó, hiện nay anh X đang bị tạm giam nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Hà Đức X.
[2.3] Quan hệ tài sản: Chị Lô Thị H và anh Hà Đức X không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Vì vậy, nên miễn xét.
[3] Về án phí: Cần buộc chị Lô Thị H phải chịu án phí DSST về ly hôn.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 2 Điều 71; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu của chị Lô Thị H. Cho chị Lô Thị H được ly hôn với anh Hà Đức X.
2. Về con cái:
- Giao hai con chung là cháu Hà Bá Đ, sinh ngày 03 tháng 02 năm 2006 và cháu Hà Liêng K, sinh ngày 14 tháng 10 năm 2008 cho chị Lô Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi trưởng thành.
- Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Hà Đức X.
- Anh Hà Đức X có quyền đi lại, thăm nom và giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Lô Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006376 ngày 15 tháng 02 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu. Chị H đã nộp đủ án phí DSST.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Lô Thị H và anh Hà Đức X có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 29/2022/HNGĐST
Số hiệu: | 29/2022/HNGĐST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về