TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 11/4/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 173/2021/TLST- HNGĐ, ngày 24/11/2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST - DS ngày 24/3/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K H, sinh năm 2000. Có mặt.
HKTT: Thôn X, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Hiện trú tại: Thôn Bái Hạ, xã Toàn Thắng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1996. Có mặt Trú tại: Thôn X, xã Đông Tiến, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn - Chị H trình bày: Chị Nguyễn Thị K H và anh Nguyễn Văn H kết hôn ngày 24/7/2019, trước khi cưới có được tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Đông Tiến, huyện Yên Phong.
Sau khi cưới, chị về ngay nhà anh H chung sống, làm ăn chung cùng gia đình anh H. Vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ tháng 5/2021, nguyên nhân là do anh H có tính ham chơi đánh bạc trên mạng, không quan tâm đến vợ con. Ngoài ra, chị có nghi ngờ anh H ngoại tình với người phụ nữ khác, chị bắt gặp trên tin nhắn, nhưng cũng không rõ cụ thể đó là người nào. Chị có nói với anh H, ban đầu thì anh H nhận nhưng sau đó, anh H không nhận nữa. Chị chưa bắt gặp anh H ngoại tình, chưa phải trả nợ thay cho anh H, anh H cũng không chửi bới đánh đập chị. Chị khuyên giải anh H nhiều lần nhưng anh H vẫn không thay đổi nên tình cảm vợ chồng ngày càng xa lánh.
Chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ từ ngày 15/11/2021. Từ đó đến nay vợ chồng ly thân. Anh H có lên đón chị nhưng chị không đồng ý. Giữa chị và bố mẹ chồng không có mâu thuẫn gì. Nay chị xác định vợ chồng không còn tình cảm và xin ly hôn anh H.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 17/3/2021. Hiện cháu đang ở với anh H. Ly hôn, chị xin nuôi con, không yêu cầu anh H cấp dưỡng.
Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn - Anh H trình bày: Anh H công nhận lời khai của chị H về thời gian, điều kiện kết hôn là đúng. Về quan hệ hôn nhân: Theo anh vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Anh không hề to tiếng, nặng lời hay trách mắng gì chị H. Vợ chồng cùng làm nghề tóc tại 1 quán, hàng ngày đi về cùng nhau thì điều kiện nào để anh ngoại tình. Thu nhập anh đều giao cho chị H giữ. Ngày 14/11/2021, vợ chồng vẫn về nhà ngoại ăn cỗ bình thường, vui vẻ, hôm sau chị H đùng đùng bỏ về nhà mẹ ở Hải Dương. Anh có lên tận nơi hỏi lý do thì chị H bảo anh mải chơi game nên chị H không thích. Sau đó, anh xin phép đón chị H về nhưng chị H không đồng ý. Bố mẹ vợ anh cũng khuyên giải nhưng chị H không nghe. Anh sẽ tiếp tục tác động bố mẹ vợ tôi để vợ chồng đoàn tụ cùng chăm sóc con cái.
Nay anh xác định vẫn còn yêu thương chị H và đề nghị Tòa án H giải để vợ chồng về đoàn tụ. Nếu chị H nhất quyết ly hôn anh cũng không đồng ý vì vợ chồng không có mâu thuẫn gì.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung như chị H trình bày là đúng. Hiện cháu đang ở với anh. Trường hợp ly hôn, anh xin được nuôi con, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa hôm nay: Chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn và xin nuôi con chung, anh H giữ nguyên quan điểm đề nghị Tòa án H giải cho vợ chồng đoàn tụ.
Kết thúc phần tranh luận, đại diện viện kiểm sát tham gia phiên toà đã phát biểu về việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành tố tụng và của các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58 và Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K H, cho chị H được ly hôn anh H.
Về con chung: Gia cháu Nguyễn Ngọc K, sinh ngày 17/3/2021 cho chị H nuôi dưỡng.
Về tài sản chung không có nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị K H có đơn xin ly hôn đối với anh Nguyễn Văn H cư trú tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, do vậy vụ án thuộc quan hệ pháp luật “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Chị Nguyễn Thị K H và anh Nguyễn Văn H kết hôn vào ngày 24/7/2019, trước khi cưới có được tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND xã Đông Tiến, huyện Yên Phong. Việc kết hôn của chị H và anh H đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn theo qui định của pháp luật nên được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Lời khai của chị H thể hiện do anh anh H có tính ham chơi đánh bạc trên mạng, không quan tâm đến vợ con. Ngoài ra, chị có nghi ngờ anh H ngoại tình với người phụ nữ khác, chị bắt gặp trên tin nhắn, nhưng cũng không rõ cụ thể đó là người nào. Chị chưa bắt gặp anh H ngoại tình, chưa phải trả nợ thay cho anh H, anh H cũng không chửi bới đánh đập chị nhưng chị thấy tình cảm vợ chồng ngày càng xa lánh. Anh H thì cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì. Anh không hề to tiếng, nặng lời hay trách mắng gì chị H. Anh khẳng định không có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác vì còn rất yêu thương vợ. Chị H bỏ về nhà bố mẹ đẻ từ ngày 15/11/2021. Anh H có lên đón chị nhưng chị không đồng ý. Anh sẽ tiếp tục tác động bố mẹ vợ và đề nghị Hội đồng xét xử H giải để vợ chồng đoàn tụ cùng chăm sóc con cái.
Như vậy, mâu thuẫn của vợ chồng giữa chị H và anh H chưa đến mức trầm trọng, chỉ là những mâu thuẫn nhỏ, hôn nhân có thể hàn gắn được, vì vậy cần không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H đối với anh H để vợ chồng đoàn tụ.
Do không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoà, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về con chung giữa chị H và anh H.
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải chịu án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56 Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị K H đối với anh Nguyễn Văn H.
2. VÒ ¸n phÝ: Chị H phải chịu 300.000đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2021/0004146 ngày 22/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 08/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 08/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về