Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 25 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 96/2021/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2021 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/QĐST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 giữa:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn C, sinh năm 1987;

- Bị đơn: Chị Vũ Thị Bích L, sinh năm 1990;

Đều cư trú tại: Tổ 09 (tổ 32 cũ), phường H, thành phố T, tỉnh T.

(Tại phiên tòa vắng mặt anh Vũ Văn C và chị Vũ Thị Bích L).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Vũ Văn C trình bày và có yêu cầu như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn C và chị Vũ Thị Bích L được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố T, tỉnh T ngày 01/4/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên xảy ra va chạm, cãi chửi nhau. Từ tháng 05/2010 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân, anh C đi làm ăn ở xa, vợ chồng không quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau nữa. Thời gian vợ chồng sống ly thân nhau đã lâu, anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh C đề nghị Tòa án giải quyết cho anh C được ly hôn chị L.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung là con Vũ Thị L1, sinh ngày 29/5/2008 và con Vũ Thị Khánh L2, sinh ngày 16/3/2011. Vợ chồng ly hôn anh C nhận nuôi con Vũ Thị L1, để chị L nuôi con Vũ Thị Khánh L2, hai bên không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện nay, anh C lao động tự do, thu nhập mỗi tháng khoảng 7.000.000 đồng. Vì là lao động tự do nên anh C không có xác nhận thu nhập nộp cho Tòa án.

- Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

* Bị đơn chị Vũ Thị Bích L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Bích L và anh Vũ Văn C được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố T, tỉnh T năm 2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ anh C, vợ chồng sống hạnh phúc thời gian đầu, khoảng đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C chơi bời, không quan tâm đến vợ, con. Nay anh C đi làm ăn ở xa, tình cảm vợ chồng càng xa cách. Anh C xin ly hôn, chị L thấy chị không có lỗi và vì thương các con nên chị L không đồng ý lý hôn.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung là con Vũ Thị L1, sinh ngày 29/5/2008 và con Vũ Thị Khánh L2, sinh ngày 16/3/2011. Nếu vợ chồng ly hôn chị L xin được trực tiếp nuôi cả hai con chung, chị L yêu cầu anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

- Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

* UBND phường H, thành phố T cung cấp:

Anh Vũ Văn C và chị Vũ Thị Bích L đều có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 9, phường H, thành phố T và có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố T vào ngày 01/4/2008. Sau khi kết hôn, anh C thường đi làm ăn ở xa, vợ chồng không có nhiều thời gian chung sống. Vợ chồng có mâu thuẫn nhưng nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể như thế nào thì địa phương không biết. Vợ chồng có 02 con chung là cháu Vũ Thị L1, sinh ngày 29/5/2008 và cháu Vũ Thị Khánh L2, sinh ngày 16/3/2011, hiện tại cả hai cháu đang ở cùng chị L và bố mẹ anh C. Vợ chồng có tài chung hay không thì địa phương không biết. Vợ chồng không vay nợ các đoàn thể ở địa phương. Việc anh C xin ly hôn chị L, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

1. Về tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền và thụ lý vụ án; thực hiện đầy đủ các thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Về thành phần tham gia xét xử và việc tiến hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình, có bản tự khai, giao nộp các tài liệu, chứng cứ tham gia đầy đủ theo triệu tập của Tòa án phục vụ cho việc giải quyết vụ án. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình.

2. Về nội dung:

- Về hôn nhân: Xử cho anh Vũ Văn C được ly hôn chị Vũ Thị Bích L.

- Về nuôi con chung: Giao cho anh Vũ Văn C trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Thị L1, sinh ngày 29/5/2008. Giao cho chị Vũ Thị Bích L trực tiếp nuôi dưỡng con con Vũ Thị Khánh L2, sinh ngày 16/3/2011. Anh C, chị L không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Anh Vũ Văn C phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về tố tụng: Anh Vũ Văn C có đơn đề nghị xin được vắng mặt tại phiên tòa, chị Vũ Thị Bích L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo trình tự vắng mặt anh C và chị L.

II. Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Anh C và chị L được tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn theo anh C trình bày là vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng thường xảy ra va chạm cãi nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5/2010 cho đến nay. Theo chị L trình bày là vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh C chơi bời, không quan tâm đến vợ, con.

Nay anh C đi làm ăn ở xa, tình cảm vợ chồng càng xa cách. Anh C xin ly hôn, chị L thấy chị không có lỗi và vì thương các con nên chị L không đồng ý lý hôn.

Anh C xin ly hôn, chị L không đồng ý ly hôn nhưng chị L không có biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ, Tòa án đã báo nhiều lần nhưng chị L không đến Tòa án làm việc. Trên thực tế cuộc sống chung giữa anh C và chị L đã không còn tồn tại, tình yêu thương đối với nhau không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy, áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của anh C, xử cho anh C được ly hôn chị L.

[2] Về nuôi con chung: Anh C và chị L có 02 con chung. Ly hôn anh C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con Vũ Thị L1, để chị L trực tiếp nuôi con Vũ Thị Khánh L2. Chị L có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi cả hai con chung và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi hai con chung. Hai con chung đều có nguyện vọng được ở với chị L. Tuy nhiên để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chung, cần giao cho anh C và chị L mỗi người trực tiếp nuôi một con. Giao cho anh C trực tiếp nuôi con Vũ Thị L1, giao cho chị L trực tiếp nuôi con Vũ Thị Khánh L2. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về chia tài sản: Anh C và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Anh Vũ Văn C phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho anh Vũ Văn C được ly hôn chị Vũ Thị Bích L.

2. Về nuôi con chung: Giao cho anh Vũ Văn C trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Thị L1, sinh ngày 29/5/2008. Giao cho chị Vũ Thị Bích L trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Thị Khánh L2, sinh ngày 16/3/2011. Anh C, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Vũ Văn C và chị Vũ Thị Bích L có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng cho con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.

3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Anh Vũ Văn C phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng anh C đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0000316 ngày 31 tháng 8 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí ly hôn sơ thẩm cho anh C.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Văn C và chị Vũ Thị Bích L có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;