Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 20 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh  Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 185/2022/TLST- HNGĐ ngày 09/5/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST - HNGĐ, ngày 07/6/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T , sinh năm 1992 – có đơn xin xét xử vắng   mặt;

HKTT: Thôn Yên Ngô, xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Nơi ở hiện nay: Thôn Bắc Khe Dài, xã Lộc Hoà, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa   Thiên Huế.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1988 – có đơn xin xét xử vắng mặt; Địa chỉ: Thôn Yên Ngô, xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa án nguyên đơn trình bày như sau:

Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn N ngày 16/10/2010 tại UBND xã Lộc Hoà,  huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trước khi cưới hai bên tự do tìm hiểu, tự  nguyện đăng ký kết hôn và tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương. Sau khi  kết hôn, hai vợ chồng về sống với nhau tại nhà chị ở thôn Xuân Lai, xã Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế một thời gian thì về quê chồng ở thôn Yên Ngô, xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh sinh sống. Thời gian đầu vợ chồng chị sống hạnh phúc như bao cặp vợ chồng khác nhưng sau đó, do sinh nhiều con, cuộc sống khó khăn, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, anh N thường xuyên ghen tuông nên dẫn đến vợ chồng cãi vã lẫn nhau. Đỉnh điểm là ngày 19/6/2018, sau khi vợ chồng cãi vã, tranh chấp, hai vợ chồng chị đã sống ly thân. Chị về nhà bố mẹ đẻ ở Thừa Thiên Huế sinh sống từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chị đề nghị Tòa án cho ly hôn anh Nguyễn Văn N.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Nguyễn Anh T, sinh ngày  27//3/2011, cháu Nguyễn Tuấn T, sinh ngày 04/12/2012 và cháu Nguyễn Thị Hà M,   sinh ngày 11/9/2014. Hiện nay, cháu Tuấn A và Tuấn T đang ở với anh N còn cháu Hà M thì ở với chị. Khi ly hôn, vợ chồng chị đã thống nhất anh N nuôi cháu Tuấn Anh và Tuấn Tú, còn chị nuôi cháu Hà My. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ và đất ruộng: không có nên không yêu cầu giải  Bị đơn là anh Nguyễn Văn N trình bày: Anh kết hôn với chị Nguyễn Thị T   ngày 16/10/2010 tại UBND xã Lộc Hoà, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Trước khi cưới hai bên tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn và tổ chức đám  cưới theo phong tục địa phương. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng ở tại nhà chị T một thời gian rồi về gia đình nhà tôi ở thôn Yên Ngô, xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Thời gian đầu, anh và chị T sống hạnh phúc như bao cặp vợ chồng khác.

Nhưng đến năm 2018, anh bắt gặp chị T có quan hệ ngoài luồng với người khác.

Anh đã nhiều lần khuyên bảo nhưng không được. Do đó, cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn, ảnh hưởng đến các con. Đến ngày 19/6/2018, chị T bỏ về Huế sinh sống. Vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị T làm đơn xin ly hôn, anh nhận thấy tình cảm vợ chồng đã hết, cuộc sông vợ chồng không thể kéo dài được. Do đó, anh đồng ý ly hôn với chị T.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày  27/3/2011, cháu Nguyễn Tuấn T, sinh ngày 04/12/2012 và cháu Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày 11/9/2014. Hiện nay, cháu Tuấn A và Tuấn T đang ở với anh còn cháu Hà  M thì ở với chị T. Khi ly hôn, anh chị đã thống nhất anh nuôi cháu Tuấn A và Tuấn  T, còn chị T nuôi cháu Hà M. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ và đất ruộng: Không có nên không yêu cầu giải   quyết.

Toà án đã tiến hành xác minh, lấy lời khai của ông Nguyễn Văn N và bà   Nguyễn Thị H là bố mẹ để của anh N: Ông N và bà H trình bày, vợ chồng anh N ở riêng, không ở cùng với ông bà. Hai vợ chồng chị T và anh N có với nhau 03 người con là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27/3/2011, cháu Nguyễn Tuấn T, sinh ngày  04/12/2012 và cháu Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày 11/9/2014. Đến năm 2014, sau khi sinh cháu Hà M thì hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, hay cãi nhau. Đến năm 2018, chị T mang cháu Hà M vào Huế sinh sống. Về nguyên nhân cảu mâu thuẫn thì ông  bà cũng không biết được, chỉ biết vợ chồng hay cãi nhau. Hiên nay thì chị T đang  nuôi cháu Hà M và sinh sống tại Thừa Thiên Huế còn anh N nuôi hai cháu Tuấn A và Tuấn T. Đối với việc chị T xin ly hôn anh N thì ông bà không có ý kiến, đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Toà án xác minh tại địa phương thì về việc chị T và anh N có mâu thuẫn không thì địa phương cũng không biết được do không nhận được bất cứ đơn tờ hay yêu cầu hoà giải nào.

Đại diện VKSND huyện Quế Võ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội  đồng xét xử nghị án. Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý  người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, tư cách pháp lý và thẩm   quyền theo quy định của BLTTDS; Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa sơ thẩm dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71, 72, 234 BLTTDS.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 51,  55,  81,  82,  83     Luật  Hôn  nhân  gia  đình;  Điều  147,  228  BLTTDS;  NQ  326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị T;

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T được ly hôn với anh N.

- Về con chung và tài sản chung: Giao cháu Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày  11/9/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày  27/3/2011, cháu Nguyễn Tuấn T, sinh ngày 04/12/2012 cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết. Chị T và anh N có quyền đi lại, thăm nom con chung mà không ai được cản trở, ngăn cấm.

- Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu giải quyết.

- Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại  phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị T hiện đang sinh sống tại xã Lộc Hoà, huyện  Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế nhưng cả chị và anh Nguyễn Văn N đều có hộ khẩu  thường trú tại thôn Yên Ngô, xã Việt Thống, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Chị T có đơn khởi kiện xin được ly hôn anh N. Do đó đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn N kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Lộc Hoà, huyện  Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời trình bày của cả chị T và anh N thì sau khi chị T sinh cháu Hà M năm 2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Đến năm 2018, chị T mang cháu Hà M về quê ngoại sinh sống. Hai vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Cả hai anh chị đều thừa nhận là không thể sống chung với nhau và đề nghị Toà án cho anh chị được ly hôn.

Xét mâu thuẫn của hai vợ chồng chị T và anh N là có thật. Vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài và đều có nguyên vọng muốn ly hôn nên cần chấp nhận ý kiến trình bày của các đương sự. Cho vợ chồng được ly hôn.

Về con chung: Chị T và anh N có 03 con chung là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27/3/2011, cháu Nguyễn Tuấn T, sinh ngày 04/12/2012 và cháu Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày 11/9/2014. Đến năm 2014. Quá trình chuẩn bị xét xử, Toà án đã  lấy lời khai của cháu Tuấn A và Tuấn T thì các cháu trình bày hiện các cháu đang ở với bố. Nếu bố mẹ ly hôn thì bố mẹ quyết định các cháu ở với ai thì các cháu ở với người đó. Cháu Hà M có trình bày về nguyện vọng của cháu khi bố mẹ ly hôn, là  cháu đồng ý theo quyết định của bố mẹ. Về việc nuôi con chung thì cả chị T và anh N đều thống nhất về việc chị T nuôi dưỡng cháu Hà M còn anh N nuôi dưỡng cháu Tuấn A và Tuấn T. Như vậy, cần chấp nhận nguyện vọng của các đương sự.

Về cấp dưỡng nuôi con, do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết. Chị T và anh N được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở, ngăn cấm.

- Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết nên không xem xét.

- Án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 - Áp dụng: Điều 51, Điều 55, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T.

Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn N.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị T nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Hà M, sinh ngày 11/9/2014 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi; Giao cho anh Nguyễn Văn N nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 27/3/2011, cháu Nguyễn Tuấn T, sinh ngày  04/12/2012 cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

- Cấp dưỡng nuôi con: Không giải quyết.

- Chị Thu và anh N có quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở, ngăn cấm.

Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị T đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2021/0005097 ngày  09/5/2022 của Chi cục THA dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

307
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;