TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 33/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 12 tháng 7 năm 2022, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 13/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2022 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28a/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H, sinh năm 1991
Bị đơn Anh Bùi Văn C, sinh năm 1984 Đều trú tại: thôn 1, , xã P, huyện Y, tỉnh Thái Bình (Chị H có đơn xin xử vắng mặt, anh C vắng mặt lần thứ 2
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án chị H trình ày: Chị và anh C tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2010 tại UBND xã P, huyện Y tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng vào tỉnh Đắc Lắc làm ăn một thời gian rồi trở về địa phương sinh sống, trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, chị đã ỏ về nhà ố mẹ đẻ ở và sinh sống, vợ chồng sống ly thân mỗi người ở một nơi, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, có chung sống với nhau cũng không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.
Về con chung: Chị và anh C có 02 con chung là Bùi Văn V, sinh ngày 16/9/2011 và Bùi Thị Huyền T, sinh ngày 19/3/2014, chị đề nghị được trực tiếp nuôi cháu V, anh C trực tiếp nuôi cháu T, hai ên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung: Chị xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án anh C không đến làm việc, cô của anh C là bà Nguyễn Thị H và UBND xã P xác nhận nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh C và chị H là do tính tình không hợp, anh chị đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm gì đến nhau, anh chị có 02 con chung là Bùi Văn V, sinh ngày 16/9/2011 và Bùi Thị Huyền T, sinh ngày 19/3/2014, hiện nay cháu V đang sống cùng chị H, cháu T đang sống cùng anh C. Về tài sản chung thì không có và không nợ ai và các tổ chức nào. Quan điểm của gia đình chị H và chính quyền địa phương đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn cho chị H vì vợ chồng không có khả năng đoàn tụ và đảm bảo quyền nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y phát iểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử và nghị án đều đúng quy định của pháp luật, việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ hai lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do là vi phạm nghĩa vụ của đương sự theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51; Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Bùi Thị H được ly hôn anh Bùi Văn C. Về con chung: Giao con chung là Bùi Văn V, sinh ngày 16/9/2011 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Bùi Thị Huyền T, sinh ngày 19/3/2014, cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Về tài sản chung, nợ chung : Do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án và đơn xin xử vắng mặt, chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu trên, không thay đổi bổ sung gì. Anh C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng mặt không đến tham gia phiên. Vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của bà Nguyễn Thị H và biên ản xác minh tại chính quyền địa phương có trong hồ sơ để giải quyết theo quy định của pháp luật
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vẫn vắng, nguyên đơn có đơn xin xử vắng mặt vì vậy căn cứ Điều 228, Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành xét xử.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Việc kết hôn giữa chị H và anh C là hợp pháp, trong quá trình chung sống , vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều không có iện pháp hàn gắn hạnh phúc dẫn đến mâu thuẫn trở nên trầm trọng, hiện vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm gì đến nhau nữa. Như vậy, có căn cứ xác định vợ chồng chị H và anh C đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình xử cho chị Hoa được ly hôn anh C.
[3]. Về con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Bùi Văn V, sinh ngày 16/9/2011 và Bùi Thị Huyền T, sinh ngày 19/3/2014, hiện nay cháu V đang sống cùng chị H, cháu T đang sống cùng anh C chị H đề nghị được trực tiếp nuôi cháu V, anh C trực tiếp nuôi cháu T, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau, xét thấy yêu cầu và đề nghị trên là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[4]. Về tài sản chung: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.
[5]. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 51, 53, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về Án phí, Lệ phí Toà án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị H được ly hôn anh Bùi Văn C.
2. Về con chung: Giao con chung là Bùi Văn V, sinh ngày 16/9/2011 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung là Bùi Thị Huyền T, sinh ngày 19/3/2014 cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau, hai ên đều có quyền đi lại thăm nom, giáo dục con chung, không ai được ngăn cản. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.
3. Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị H đã nộp tạm ứng án phí tại iên lai số 0004059 ngày 17/01/2022 của Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí, chị H đã nộp xong án phí.
5.Về quyền kháng cáo: Chị H và anh C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngàỳ nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 33/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 33/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về