Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tiền thưởng số 02/2024/LĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2024/LĐ-PT NGÀY 25/07/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG, TIỀN THƯỞNG

Trong các ngày 18 và 25 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 01/2024/TLPT-LĐ ngày 16 tháng 01 năm 2024 về “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động; Tiền thưởng”.

Do Bản án lao động sơ thẩm số 2160/2023/LĐ-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2131/2024/QĐ-PT ngày 26/6/2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Sullivan Benedict D (Benedict D); Sinh năm 1963. Hộ chiếu số: 099284676 do Vương Quốc L và B cấp.

Địa chỉ: Lay Clerks F, N, S, E, Cambs CB75TT, UK. Địa chỉ liên hệ: A18- 06, R, A N, phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Vĩnh L, sinh năm 1952; Địa chỉ: C Đường B C, phường D, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (Theo giấy ủy quyền số công chứng 017491, quyền số 04TP/CC-SCC/HĐGD, ngày 16/12/2015 tại Văn phòng C1) (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D): Bà Phạm Thị Thanh H là Luật sư của Công ty L1 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; Địa chỉ: B Đường số F, H, phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

2. Bị đơn: Công ty TNHH C2;

Trụ sở: Lầu B số G T, phường A, Quận A, Tp ..

Người đại diện theo pháp luật: Ông Ko Jae S - Tổng Giám đốc (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Phan Thị Diệu H1; Bà Nguyễn Thị Hồng C; Bà Nguyễn Ngọc Trà M; Ông Võ Đức Nhiên K. Cùng địa chỉ: Lầu B số G T, phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Người kháng cáo: Ông Sullivan Benedict D là nguyên đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện để ngày 16/12/2015, tại các bản tự khai của người đại diện theo ủy quyền nguyên đơn ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D) trình bày:

Ngày 01/01/2014, Công ty Trách nhiệm hữu hạn T (Nay đổi tên là Công ty TNHH C2) (gọi tắt Công ty C2) ký hợp đồng lao động số 571-1/HĐLĐ/2014-MSM xác định thời hạn từ ngày 01/01/2014 đến ngày 30/4/2015 với ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D) (gọi tắt ông B); Quốc tịch Anh với chức vụ được giao là Giám đốc kinh doanh và tiếp thị. Mức lương được hưởng theo hợp đồng là 4.000 USD/tháng; Trợ cấp tiền nhà là 750 USD/tháng. Ngoài ra, ông B được nhận tiền hoa hồng cho các hợp đồng kinh doanh truyền thông (hợp đồng quảng cáo) mà ông B hỗ trợ Công ty ký kết trong thời hạn hợp đồng lao động. Chi tiết quyền và nghĩa vụ liên quan giữa các bên được nêu trong phụ lục hợp đồng lao động.

Theo hợp đồng lao động, thì ngày 07/10/2014 Tổng Giám đốc Công ty C2 gửi thư điện tử thông báo đến toàn thể Công ty về việc chuyển ông B từ chức vụ Giám đốc kinh doanh và tiếp thị sang vị trí Quản lý tầng, cụ thể ông B sang làm việc tại vị trí quản lý cụm rạp chiếu phim SPP (Saigon Pargon Q). Quyết định này có hiệu lực từ ngày 30/10/2014. Theo Thông báo này thì tiền lương lao động và các khoản phụ cấp theo lương của ông B được giữ nguyên. Sau khi nhận thông báo thuyên chuyển ông B đã đến vị trí làm việc mới nhận nhiệm vụ, không thắc mắc, khiếu nại gì.

Quá trình làm việc tại nhiệm sở mới cho đến ngày 17/12/2014, ông B chủ động gửi thư điện tử kèm theo ảnh chụp Đơn xin nghỉ việc, có chữ ký tay của nguyên đơn gửi đến Lãnh đạo Công ty C2 qua đường bưu điện, có đóng dấu gửi ngày 13/12/2014.

Sau khi nhận được bưu gửi này của nguyên đơn, ngày 19/01/2015 Lãnh đạo Công ty C2 đã ban hành quyết định số 0005/QĐTV/2015-MSM giải quyết cho ông B được thôi việc theo nguyện vọng, quyết định này có hiệu lực từ ngày 20/01/2015.

Vào ngày 06/02/2015, ông B đã ký tên xác nhận trong Biên bản bàn giao khi nghỉ việc, sau đó ngày 13/02/2015 giữa nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện Lệnh chuyển tiền thanh toán lương, bao gồm: Tiền lương còn lại sau khi thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động, tiền phụ cấp theo lương, tiền thưởng hoa hồng tính đến ngày 20/01/2015.

Theo người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Quá trình làm việc theo hợp đồng lao động Công ty C2 đã tạo áp lực thuyên chuyển người lao động sang làm công việc khác trái nghề, không đúng như nội dung công việc được ghi trong bản hợp đồng lao động đã ký, việc làm này phía bị đơn đã vi phạm Khoản 1 Điều 31 Bộ luật lao động.

Ngoài ra, khi điều động người lao động sang làm công việc khác bị đơn đã vi phạm về thời hạn báo trước, vị trí mới được giao không đúng với năng lực và sở trường công tác, vì thế đã gây ức chế về mặt tâm lý, khiến người lao động phải điều trị chữa bệnh tại bệnh viện. Thực chất của việc điều chuyển này là ép người lao động đến đường cùng để thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động, vi phạm quy định pháp luật về lao động. Đây cũng là hình thức mà phía bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với nguyên đơn. Vì những căn cứ trên, nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án đối với các yêu cầu như sau:

Xác định Công ty C2 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với nguyên đơn không đúng quy định của pháp luật Việt Nam về lao động, thời gian được xác định từ ngày 19/01/2015 đến hết thời hạn của hợp đồng lao động (ngày 30/4/2015).

Về trách nhiệm bồi thường: Công ty C2 phải bồi thường tiền lương lao động cho nguyên đơn (thời gian lao động từ ngày 19/01/2015 đến ngày 30/4/2015) cộng với các khoản phụ cấp. Số tiền bị đơn phải có trách nhiệm bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật theo trình bày của ông Vĩnh L được ghi trong đơn xin thay đổi một phần nội dung khởi kiện ngày 06/6/2023 như sau:

Tiền lương làm việc của 08 ngày tháng 01/2015 là 30.062.667 đồng (Tỷ giá Việt Nam đồng so với giá 01 USD tại thời điểm giải quyết vụ án là 22.547đồng/01 USD).

Trả tiền lương của tháng 2, 3 và 4 năm 2015 là 300.626.666 đồng.

Tiền phụ cấp theo lương (của 02 khoản được ghi phần trên) là 50.367.000 đồng. Tổng cộng: Tiền lương, phụ cấp lương nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán là 356.997.166 đồng.

Về tiền thưởng theo hợp đồng lao động, nguyên đơn có yêu cầu như sau:

Khoản tiền hoa hồng do Công ty C2 đã chi trả cho ông B năm 2014 vào các tháng 3, tháng 6, tháng 9 số tiền là 3.157.866.569 đồng. Tuy nhiên, theo số liệu trong hồ sơ thanh toán tiền hoa hồng tại số cái số hiệu 5113201 do Công ty C2 cung cấp thì khoản tiền hoa hồng mà Công ty C2 đã thanh toán cho các hợp đồng 2014 mà ông B thực hiện chỉ là 1.688.937.295 đồng. Đối chiếu với các chứng từ thanh toán, tiền hoa hồng mà Công ty C2 chưa trả cho ông B là 4.725.627.895 đồng. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả đủ số tiền trên cho nguyên đơn.

Trong đơn khởi kiện ban đầu, nguyên đơn còn yêu cầu bị đơn phải thanh toán 02 (hai) vé máy bay hạng thương gia khứ hồi về Anh Q, phía bị đơn yêu cầu nguyên đơn phải cung cấp hóa đơn, chứng từ chi phí hợp lệ để đối chiếu.

Ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu khởi kiện của ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D). Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn tại phiên tòa là bà Phan Thị Diệu H1 trình bày:

Theo đại diện ủy quyền của nguyên đơn trình bày về quá trình giao kết hợp đồng lao động cũng như việc tạm ứng tiền lương lao động của nguyên đơn từ Công ty C2 chi trả là đúng.

Do căn cứ vào nhu cầu kinh doanh của đơn vị, vào ngày 07/10/2014 Công Ty C2 ban hành thông báo thuyên chuyển ông Benedict Daniel S1 (ông B) đến chi nhánh Công ty TNHH C2 tại Quận G làm việc với vị trí Giám sát sảnh kể từ ngày 13/10/2014 đến ngày 31/12/2014. Theo quyết định thuyên chuyển này tiền lương và các khoản phụ cấp của ông B vẫn giữ nguyên theo hợp đồng lao động. Quyết định có hiệu lực từ ngày 10/10/2014.

Việc điều chuyển ông B sang làm việc tại vị trí công việc khác thì thu nhập giữ nguyên mức lương theo hợp đồng lao động là phù hợp với quy định tại Điều 31 Bộ luật lao động Việt Nam 2012. Ông B vẫn được trả tiền lương đầy đủ theo hợp đồng lao động.

Tuy nhiên, ngày 17/12/2014 ông B gửi đơn xin nghỉ việc đến Tổng Giám đốc Công ty C2 thông qua thư điện tử (có đính kèm bản chụp đơn xin nghỉ việc, có chữ ký tay của ông B). Nội dung “Đơn xin nghỉ việc” thể hiện ông B xin nghỉ việc vị trí Giám đốc kinh doanh và tiếp thị (theo đúng chức danh, công việc ghi trên hợp đồng lao động). Thời gian nghỉ việc xác định là ngày 19/01/2015. Đồng thời, qua thư điện tử này, ông B cũng xin nghỉ phép theo giấy chứng nhận của Bác sỹ từ ngày 16/12/2014 đến ngày 01/01/2015.

Sau khi gửi thư điện tử, nguyên đơn còn gửi bản chính Đơn xin nghỉ việc qua đường bưu điện đến trụ sở của đơn vị bị đơn tại Lầu A, số F đường L, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện tiến hành thủ tục cho nguyên đơn xin nghỉ việc.

Sau khi nhận được nguyện vọng của nguyên đơn, Ban Giám đốc Công ty TNHH C2 đã căn cứ quy định tại Khoản 3 Điều 36 Bộ luật lao động năm 2012 giải quyết cho ông B được nghỉ việc theo nguyện vọng tính từ ngày 20/01/2015. Sau đó, bộ phận nhân sự của Công ty cùng ông B tiến hành các thủ tục bàn giao công việc, ký xác nhận vào biên bản hoàn tất việc bàn giao khi nghỉ việc. Về quyền lợi trong thời gian làm việc, bị đơn đã xác định các khoản phải chi trả cho nguyên đơn sau khi đã trừ đi thuế thu nhập cá nhân (tương đương với 3.646,43 USD). Và số tiền Công ty C2 phải thanh toán thực tế cho ông B là 14.762,51 USD tương đương 315.622.420 đồng (VNĐ) theo tỷ giá quy đổi 21.380 VNĐ/01USD.

Đối với tiền thưởng hoa hồng, bị đơn đã giải quyết cho nguyên đơn theo thời hạn của bản hợp đồng lao động ký thời gian tương ứng như sau:

Tổng số tiền thưởng hoa hồng của ông B được tính đến khi nghỉ việc là 3.157.866.569 đồng (VNĐ), cụ thể:

Năm 2014, Công ty đã có 03 (ba) lần chốt doanh thu quảng cáo để tính tiền thưởng hoa hồng cho nguyên đơn (theo thỏa thuận nhận cuối tháng 3, tháng 6 và tháng 9/2014) theo đề nghị thanh toán tiền hoa hồng do bộ phận kinh doanh truyền thông lập (ông B có ký tên xác nhận trên các bản đề nghị thanh toán tiền hoa hồng). Theo đó, tổng số tiền thưởng hoa hồng phía bị đơn đã tính toán chi tiết là 2.926.200.223 đồng; Cụ thể đã chi:

Quý 01 năm 2014, số tiền 762.950.370 đồng.

Q1 02 năm 2014, số tiền 1.115.080.869 đồng.

Quý 03 năm 2014, số tiền là 1.039.492.336 đồng.

Trong quá trình làm việc cho đến khi chính thức nghỉ việc (nộp đơn xin nghỉ việc ngày 17/12/2014), bản thân nguyên đơn không có bất kỳ thắc mắc hoặc khiếu nại gì với việc cách tính doanh thu hay tỷ lệ tiền thưởng hoa hồng nguyên đơn được hưởng trong thời hạn làm việc của hợp đồng lao động. Vì thế, phía bị đơn không đồng ý với khai nại của nguyên đơn hoặc trình bày của đại diện ông B tại Tòa án cho rằng chỉ nhận được 1.468.929.274 đồng (VNĐ) tiền hoa hồng năm 2014 từ bị đơn giao.

Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bao gồm 06 (sáu) cá nhân được người đại diện theo pháp luật của bị đơn cử đến tham gia tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm đều thống nhất ý kiến như sau:

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về hai nội dung: Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và thanh toán đúng, đủ tiền thưởng theo hợp đồng lao động đã được ký kết là không đúng. Các khoản tiền phía bị đơn đã giải quyết quyền lợi xong theo quy định của pháp luật về lao động. Tuy nhiên, sau khi thẩm tra chứng từ, sổ sách kết toán bị đơn thấy rằng: Sau khi cân đối số tiền thưởng hoa hồng cho nguyên đơn, Công ty C2 còn phải thanh toán cho nguyên đơn 156.967.273 đồng (VNĐ). Thời điểm trả: sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Riêng yêu cầu của nguyên đơn về việc chi trả tiền vé máy bay (về nước) trong thời hạn hợp đồng từ ngày 01/01/2014 đến ngày 20/01/2015. Phía bị đơn chỉ đồng ý chi trả theo số tiền được ghi trên hóa đơn, chứng từ hợp lệ được gửi đến Ban lãnh đạo của Công ty C2.

Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng các bên đương sự không tự thỏa thuận được với nhau.

Tại Bản án lao động sơ thẩm số 2160/2023/DS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã căn cứ: Điểm a Khoản 1 Điều 32, Khoản 3 Điều 35, Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 207, Điều 208, Điều 209, Điều 210, Điều 211, Điều 105, Điều 170 đến Điều 181, Khoản 4 Điều 203, Điều 244, Điều 266, Điều 271, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm b Khoản 1 Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25, Khoản 3 Điều 36, Điều 47 và Khoản 2 Điều 200 của Bộ luật lao động năm 2012; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Luật Thi hành án Dân sự;

Tuyên xử:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D).

Về việc:

1/ Buộc bị đơn Công ty TNHH C2 phải bồi thường thiệt hại 03 tháng tiền lương từ ngày 19/01/2015 đến ngày 30/4/2015 do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, với số tiền lương, phụ cấp lương là 356.997.166 (ba trăm, năm mươi sáu triệu, chín trăm chín mươi bảy nghìn, một trăm sáu sáu) đồng.

2/ Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu Công ty TNHH C2 trả tiền hoa hồng, tiền thưởng, sau khi cân đối lại trong thời hạn của hợp đồng lao động, số tiền 4.725.627.895 (bốn tỉ, bảy trăm hai mươi lăm triệu, sáu trăm hai mươi bảy nghìn, tám trăm chín mươi lăm) đồng. Vì đã được giải quyết xong.

3/ Tách việc giải quyết trả tiền vé máy bay đi lại của nguyên đơn, được quy định trong thời hạn của hợp đồng lao động, khi xuất trình đủ chứng cứ và nguyên đơn tiếp tục có yêu cầu.

4/ Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn Công ty TNHH C2 trong việc trả số tiền sau khi cân đối, khoản tiền phải thanh toán cho nguyên đơn còn dư là 157.866.569 (một trăm, năm mươi bảy triệu, tám trăm sáu mươi sáu nghìn, năm trăm sáu mươi chín) đồng. Số tiền này nguyên đơn sẽ được nhận lại ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, nhận trực tiếp giữa hai bên hoặc thông qua Cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và dành quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 05/10/2023, Đại diện ủy quyền của nguyên đơn ông Ông Sullivan Benedict D (Benedict D) có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn Ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D) có ông Vĩnh L là người đại diện theo ủy quyền vẫn giữ nguyên việc kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, sửa toàn bộ án sơ thẩm hoặc hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn hủy toàn bộ án sơ thẩm. Do bản án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng cũng như nội dung vụ án làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử xử bác yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên quyết định án sơ thẩm.

Các đương sự cũng không có thỏa thuận gì với nhau, chỉ yêu cầu Tòa xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về thủ tục tố tụng: Ở giai đoạn xét xử phúc thẩm những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự và tuân thủ đúng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án.

- Về nội dung kháng cáo thì thấy rằng, chỉ có nội dung về tính tiền hoa hồng có một phần không chính xác, tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn cũng thừa nhận có sai số và mức sai số khá xa so với số tiền mà tòa sơ thẩm đã chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại phần này. Ngoài đều đó ra thì những phần khác mà nguyên đơn kháng cáo là không có căn cứ xem xét. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D) về phần tiền thưởng hoa hồng. Sửa một phần quyết định bản án lao động sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của đại diện nguyên đơn ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D) trong hạn luật định và hợp lệ được Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án và xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D, gọi tắt là ông B), Hội đồng xét xử xét thấy:

Nguyên đơn ông B khởi kiện yêu cầu xác định bị đơn Công ty TNHH C2 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với nguyên đơn không đúng quy định của pháp luật Việt Nam về lao động và đề nghị bị đơn phải bồi thường các khoản tiền lương, thưởng,… do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (từ ngày 19/01/2015 đến ngày 30/4/2015) với tổng số tiền là 7.816.482.107 đồng.

[2.1] Ngày 01/01/2014, giữa Công ty TNHH C2 và ông Benedict Daniel S1 ký hợp đồng lao động số 571-1/HĐLĐ/2014-MSM xác định thời hạn từ ngày 01/01/2014 đến ngày 30/4/2015; Chức vụ Giám đốc kinh doanh và tiếp thị. Quá trình làm việc theo hợp đồng lao động ông B được lãnh đạo đơn vị điều chuyển sang bộ phận khác Quản lý cụm rạp chiếu phim SPP thuộc công ty với mức tiền lương và phụ cấp không thay đổi theo bản hợp đồng lao động đã giao kết. Sau khi có thông báo điều chuyển ông B đã chủ động chấp hành việc thay đổi vị trí việc làm của Công ty.

Ngày 17/12/2014, theo bị đơn cho rằng ông B đã tự ý nộp đơn xin nghỉ việc thông qua email và thư qua đường bưu điện, có đóng dấu gửi ngày 13/12/2014, đơn này được chuyển đến đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH C2. Tuy nhiên, theo như đại diện nguyên đơn trình bày ông B chỉ nộp đơn xin nghỉ vị trí Giám đốc kinh doanh và tiếp thị, đồng thời nguyên đơn chỉ xin nghỉ phép theo giấy chứng nhận của Bác sỹ từ ngày 16/12/2014 đến ngày 01/01/2015.

[2.2] Án sơ thẩm nhận định “ông B gửi đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động sau khi làm việc theo thông báo điều chuyển là do tự nguyện chứ không vì lý do bị cấm đoán hay ép buộc nào khác. Vì thế, việc khởi kiện của nguyên đơn cho rằng Công ty C2 đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật đối với ông B; thời điểm chấm dứt ngày 19/01/2015 đến thời hạn kết thúc của hợp đồng ngày 30/4/2015 là không có căn cứ pháp lý để được xem xét chấp nhận”. Tuy nhiên, trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của bị đơn cũng xác định ngoài “đơn xin nghỉ vị trí Giám đốc kinh doanh và tiếp thị, đồng thời xin nghỉ phép theo giấy chứng nhận của Bác sỹ từ ngày 16/12/2014 đến ngày 01/01/2015” thì không có đơn xin nghỉ việc nào khác của ông B.

[2.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn là bà Phan Thị Diệu H1 cũng thừa nhận Công ty C2 ra Quyết định số 0005/QĐTV/2015- MSM giải quyết cho ông B được thôi việc theo nguyện vọng chỉ dựa trên “đơn xin nghỉ vị trí Giám đốc kinh doanh và tiếp thị” nêu trên. Nguyên đơn không có đơn xin nghỉ việc nào khác và cũng không có bất cứ thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động nào như án sơ thẩm nhận định. Đồng thời, Bản án sơ thẩm còn nhận định có phụ lục hợp đồng nhưng trong hồ sơ vụ án không có (Bị đơn và Nguyên đơn tại phiên tòa xác nhận không có phụ lục hợp đồng). Như vậy, việc tòa án cấp sơ thẩm nhận định là không có căn cứ chứng minh.

[2.4] Về việc chi trả tiền hoa hồng, Nguyên đơn yêu cầu số tiền 4.725.627.895 đồng; bị đơn chỉ đồng ý trả số tiền 156.967.273 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành đối chất để xác nhận chứng cứ của các bên mà lại ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền 156.967.273 đồng tiền thưởng hoa hồng là có thiếu sót. Vị đại diện Viện kiểm sát cũng có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa án sơ thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn về phần này, nhưng về vấn đề này án sơ thẩm cũng chưa được làm rõ.

[3] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và nội dung vụ án, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, mà Tòa cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D).

Hủy toàn bộ Bản án Lao động sơ thẩm của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Giao toàn bộ hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết theo quy định của pháp luật.

[4] Án phí sơ thẩm: Do hủy Bản án sơ thẩm nên án phí sơ thẩm sẽ được xử lý khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

[5] Án phí phúc thẩm: Người kháng cáo không phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Sullivan Benedict D1 (Benedict D).

1. Hủy toàn bộ Bản án Lao động sơ thẩm số 2160/2023/LĐ-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Giao hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý, giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật.

2. Về án phí sơ thẩm sẽ được xử lý khi Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

3 .Về án phí lao động phúc thẩm: Ông Sullivan Benedict D (B1) không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, tiền thưởng số 02/2024/LĐ-PT

Số hiệu:02/2024/LĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 25/07/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;