Bản án về tranh chấp tiền lương, tiền thưởng số 02/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 02/2024/DS-PT NGÀY 18/01/2024 VỀ TRANH CHẤP TIỀN LƯƠNG, TIỀN THƯỞNG

Ngày 18 tháng 01 năm 2024, phòng xét xử số C, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án lao động thụ lý số 13/2023/TLPT-LĐ ngày 14 tháng 12 năm 2023 về việc: “Tranh chấp tiền lương, tiền thưởng”.

Do Bản án lao động sơ thẩm số 09/2023/LĐ-ST ngày 20/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 01/2023/QĐ-PT ngày 02/01/2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm 1977; địa chỉ: H, khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Vũ Hoàng C, sinh năm 1968; địa chỉ: H, khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Theo văn bản ủy quyền ngày 07/4/2023 - Có mặt).

- Bị đơn: Công ty TNHH M.

Địa chỉ trụ sở: Số B, đường E, khu Công nghiệp B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng S; chức danh: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Cao Thị Hà G và ông Nguyễn Anh V.

Cùng địa chỉ: Văn phòng L, số B đường C, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; (Theo văn bản ủy quyền để ngày 20/4/2023 - bà G có mặt).

- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q do ông Vũ Hoàng C đại diện theo ủy quyền trình bày:

Bà Q vào làm việc cho Công ty TNHH M từ ngày 05/01/2000, theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, công việc làm là công nhân lắp ráp. Trong quá trình làm việc bà Q luôn hoàn thành nhiệm vụ, không vi phạm nội quy kỷ luật của Công ty. Khi Công ty thường và nâng lương năm 2023 thì phân biệt đối xử với bà vì bà khởi kiện Công ty. Công ty chỉ nâng lương cho bà ở mức E dẫn đến quyền lợi của bà bị thiệt thòi, mặc dù công việc bà làm hoàn thành như những công nhân khác. Cụ thể:

- Về nâng lương: Công ty chỉ nâng lương cho bà Q là 2,5% trong khi những công nhân khác được nâng là 5,5% và được tăng thêm 470.000 đồng tiền đi lại, dẫn đến chế độ của bà bị thiệt hại: Tiền lương theo lẽ bà được hưởng là 9.312.640 đồng x 5,5% + 9.312.640 đồng + 470.000 đồng tiền đi lại = 10.554.835 đồng/tháng.

Tiền lương thực tế Công ty trả cho bà hiện nay là 8.694.000 đồng/tháng.

Như vậy, tiền lương chênh lệch mỗi tháng là 10.554.835 đồng - 8.694.000 đồng = 1.860.835 đồng.

Tổng số tiền lương chênh lệch năm 2023 là 1.860.835 đồng x 12 tháng = 22.330.000 đồng.

Về tiền thưởng: Số tiền người lao động bình thường được lãnh là 2,4 tháng lương nhưng do Công ty cho rằng bà Q đã 02 năm liên tiếp xếp loại E nên không được thưởng. Việc này, làm cho bà bị mất tiền thưởng là 2,4 tháng lương x 9.312.640 đồng/tháng + tiền điều chỉnh tối thiểu vùng 260.300 đồng/tháng = 22.974.336 đồng. Tổng cộng hai khoản Công ty phải trả cho bà Q là 45.304.336 đồng (bốn mươi lăm triệu ba trăm linh bốn nghìn ba trăm ba mươi sáu đồng).

Việc Công ty đưa ra các bản báo cáo sự việc là hoàn toàn không đúng sự thật, bà không biết gì về những bản báo cáo này. Công ty cho rằng bà Q vi phạm thì Công ty phải tổ chức họp giữa bà với Công ty để xem bà có vi phạm hay không, những bản báo cáo sự việc này chỉ là một phía do Công ty đưa ra nên không đúng với quy định của pháp luật.

Do chuyên môn của bà Q là làm bên bộ phận lắp ráp nên khi chuyển bà Q sang bộ phận linh kiện thì không thuộc chuyên môn của bà Q. Tại buổi làm việc với Công đoàn công ty bà Q có yêu cầu nếu Công ty cam kết trường hợp bà Q thao tác máy móc, nếu có xảy ra hư hỏng thì bà Q không phải chịu trách nhiệm thì bà Q mới thao tác máy.

2. Tại bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn Công ty TNHH M do người đại diện theo ủy quyền bà Cao Thị Hà G trình bày:

Về quá trình thực hiện Hợp đồng lao động: Tháng 01 năm 2000 bà Nguyễn Thị Q đến xin việc tại Công ty, Công ty không biết bị bà Q lừa dối nên đã tiếp nhận vào làm việc. Bà Nguyễn Thị Q đã gian dối khai minh tên Vũ Phi T, ghi đơn xin việc mang tên Vũ Phi T và nộp cho Công ty bộ hồ sơ xin việc giả gồm: Chứng minh nhân dân, số hộ khẩu, bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, sơ yếu lý lịch, phiếu khám sức khỏe mang tên Vũ Phi T. Do không biết bị bà Q gian dối, lừa gạt nên Công ty đã tiếp nhận bà Q vào làm việc.

Ngày 05/01/2000 Công ty và bà Nguyễn Thị Q với tên giả là Vũ Phi T ký Hợp đồng học việc. Ngày 01/3/2000 hai bên ký Hợp đồng lao động chính thức, đến 01/3/2006 thì ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn và bà Q làm việc tại Công ty cho đến nay. Tháng 8/2016, do sợ sử dụng tên, hồ sơ giả sẽ không được hưởng chế độ bảo hiểm nên bà Q đã khai báo và đề nghị Công ty liên hệ với cơ quan bảo hiểm điều chỉnh lại thông tin cho bà Q. Như vậy, bà Q đã cố tình lừa dối Công ty ngay từ khi nộp hồ sơ xin việc và trong quá trình làm việc sau này, lừa dối Công ty hơn 10 năm.

Trong quá trình làm việc, bà Q thường xuyên vi phạm nội quy, quy chế của Công ty, có nhiều lời lẽ, hành vi khiếm nhã đối với người khác, ý thức, kết quả làm việc của bà Q rất kém, các cán bộ quản lý trực tiếp bà Q rất bức xúc về ý thức làm việc và kết quả làm việc kém năng suất nhưng ngang ngược của bà Q.

Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Q, Công ty có ý kiến như sau:

Đối với việc bà Q cho rằng năm 2023 công ty không nâng lương đúng quy định cho bà Q: Điều 103 Bộ luật lao động năm 2019 quy định việc nâng lương và các chế độ khuyến khích đối với người lao động được thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc quy định trong quy chế của người sử dụng lao động. Hợp đồng lao động mà bà Q ký với Công ty với tên Nguyễn Phi T1 chỉ quy định mỗi năm tăng lương một lần mà không quy định mỗi năm phải tăng lương bao nhiêu %, tăng số tiền bao nhiêu.

Thỏa ước lao động tập thể của Công ty cũng chỉ quy định “Ban giám đốc Công ty căn cứ thành tích làm việc của nhân viên để xét nâng lương mỗi năm một lần vào tháng 01 sau khi đã tham khảo ý kiến của Ban chấp hành Công đoàn (trừ những lần điều chỉnh lương theo quy định của Chính phủ)".

Do đó, việc tăng lương cụ thể như thế nào thực hiện theo Quy chế của Công ty.

Theo Quy chế của Công ty, áp dụng chung cho toàn bộ người lao động ban hành ngày 07/01/2023 (Công ty sử dụng thuật ngữ: Bản liên lạc nghiệp vụ, phát hành: 23-002) thì mức tăng lương chung cho người lao động dao động từ 2,5% đến 6,5%, tùy vào kết quả đánh giá, xếp loại của Công ty đối với người lao động trong năm trước tăng lương (đánh giá kết quả làm việc năm 2022).

Các năm trước bà Q liên tục vi phạm nội quy, quy chế của Công ty, năm 2022 bà Q vẫn tiếp tục có thái độ không muốn làm việc, cố tình không hợp tác, không tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên, gây cản trở cho việc quản lý nhân viên của cấp giám sát tại phòng, ngoài ra còn làm ảnh hưởng đến các nhân viên khác cũng như làm ảnh hưởng không tốt đến môi trường làm việc xung quanh nên Công ty đánh giá bà Q loại E và tăng lương cho bà Q 2,5%, số tiền tăng là 201.000 đồng/tháng, cụ thể tăng từ 8.023.000 đồng lên thành 8.224.000 đồng.

Các hành vi vi phạm của bà Q trong năm 2022 như sau:

- Báo cáo sự việc ngày 15/02/2022, do ông Lê Văn P - Trưởng ca đảm trách phòng linh kiện 1 cho thấy bà Q cố tình không muốn làm việc, gây khó khăn, cản trở trong việc quản lý nhân viên phòng linh kiện 1.

- Báo cáo sự việc ngày 28/3/2022, ngày 05/9/2022, ngày 02/12/2022 do ông Lê Văn D - Trưởng ca đảm trách phòng linh kiện 1 cho thấy từ cuối tháng 02/2021 đến cuối tháng 12/2022 bà Q được phân công phụ trách thao tác công đoạn tâm sắt và được người hướng dẫn cách thức thao tác, tuy nhiên bà Q không chịu học, không hợp tác. Trong báo cáo cũng thể hiện hàng ngày bà Q chỉ ngồi một chỗ và đi lòng vòng trong phòng hoặc ra nhà vệ sinh, không làm việc. Theo tiêu chuẩn của công đoạn này là mỗi nhân viên phải phụ trách 04 máy, tuy nhiên những máy do bà Q phụ trách đều không làm ra được sản phẩm nào.

Trước đó, Công ty cũng đã có thông báo về tình trạng người lao động cá biệt là bà Q đến cho công đoàn cơ sở. Trong tháng 01/2022, Công đoàn cũng đã tiến hành xác nhận thực tế.

Qua các sự việc trên thấy rằng bà Q cố tình không muốn làm việc, không tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên, gây cản trở trong việc quản lý nhân viên của cấp giám sát phòng linh kiện 1, ngoài ra còn làm ảnh hưởng đến nhân viên khác làm chung công đoạn. Chính bản thân bà Q cũng thừa nhận việc này khi tuyên bố rằng “Tôi làm cả ngày không ra con hàng nào mà không ai dám nói gì” được thể hiện trong báo cáo sự việc ngày 15/02/2022.

Căn cứ Quy chế của Công ty về “Phương pháp đánh giá nhân sự dành cho nhân viên thao tác áp dụng từ năm 2014” đến nay thì trường hợp người lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây bị đánh giá loại E: "Nghỉ không lương không được duyệt từ 10 ngày trở lên; Thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao; Vi phạm nội quy công ty (bị vi phạm các hình thức kỷ luật)".

Năm 2022, bà Q đã thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao. Do đó, căn cứ vào Quy chế của Công ty, năm 2022 Công ty đánh giá bà Q loại E. Vì vậy, việc tăng lương cho bà Q theo mức 2,5% đúng quy chế của Công ty.

Đối với việc bà Q cho rằng Công ty thưởng không đúng quy định:

- Khoản tiền mà bà Q kiện đòi là tiền thưởng năm 2022, tức thưởng Tết năm 2023. Việc áp dụng mức thưởng Tết 2023 của Công ty căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình làm việc năm 2021 và năm 2022 của người lao động.

Theo quy định tại Điều 104 Bộ luật lao động thì người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động. Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định và công bố công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở.

Theo Quy chế thưởng của Công ty ban hành ngày 07/01/2023 (Công ty sử dụng thuật ngữ Bản liên lạc nghiệp vụ; số phát hành: 23.001) thì mức thưởng năm 2023 từ 0,9 tháng lương đến 2,7 tháng lương. Tại điểm 4.4 của bản liên lạc nghiệp vụ này xác định đối với nhân viên có 02 năm liên tiếp được đánh giá loại E thì sẽ không được chi trả thưởng, áp dụng kết quả đánh giá từ năm 2021 trở về sau.

Năm 2021, theo quy chế bà Q cũng chỉ được đánh giá loại E do liên tục có nhiều hành vi vi phạm như có thái độ làm việc không hợp tác, không tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, làm việc không tốt, không muốn làm việc, thuộc trường hợp “Thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao”, cụ thể: Theo báo cáo sự việc ngày 27/02/2021, ngày 08/03/2021, ngày 25/05/2021 do ông Lê Văn P1 - Trưởng ca phòng Linh kiện 1 thì bà Q không hợp tác trong công việc, cố tình tạo ra phế phẩm xấu, không tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên, gây cản trở cho việc quản lý nhân viên của cấp giám sát phòng linh kiện 1, ngoài ra còn làm ảnh hưởng đến các nhân viên khác làm chung công đoạn.

Do liên tục bị đánh giá xếp loại E cho năm 2021, 2022 nên bà Q không được hưởng mức thưởng năm 2023 là đúng với kết quả làm việc của bà Q và theo đúng quy chế của Công ty.

Công ty đã phân loại, đánh giá rất công bằng với tất cả người lao động, ai làm tốt, ý thức tốt thì được đánh giá tốt và ngược lại. Vì vậy, Công ty không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Q. Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Q.

3. Bản án sơ thẩm:

Tại Bản án lao động sơ thẩm số: 09/2023/LĐ-ST ngày 20 tháng 9 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã căn cứ Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 235; Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 90, Điều 103, Điều 104 Bộ luật Lao động; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q đối với bị đơn Công ty TNHH M về việc “Tranh chấp tiền lương, tiền thưởng”.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bà Q được miễn án phí lao động sơ thẩm về tranh chấp tiền lương. Bà Q phải chịu 689.230 đồng (sáu trăm tám mươi chín nghìn hai trăm ba mươi đồng) án phí lao động sơ thẩm về tiền thưởng.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.

4. Kháng cáo:

Ngày 25/9/2023, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

5. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật ở giai đoạn phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung kháng cáo: Trong quá trình làm việc, bà Q nhiều lần bị cấp quản lý đánh giá có hành vi cố tình không muốn làm việc, không tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên, gây cản trở cho việc quản lý nhân viên của cấp giám sát phòng linh kiện 1, ngoài ra còn làm ảnh hưởng đến các nhân viên khác làm chung trên công đoạn được thể hiện qua các “Báo cáo sự việc” ngày 15/2/2022, ngày 28/3/2022, ngày 02/12/2022. Ngoài ra, theo các Bảng thực tích sản xuất nhân viên Q và nhân viên khác thì số lượng sản phẩm thực tế của bà Q trong các tháng 3/2022, tháng 8/2022, tháng 10/2022, tháng 11/2022 là 0. Căn cứ Quy chế của Công ty, thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và nội quy của công ty thì việc bà Nguyễn Thị Q bị Công ty xếp loại E năm 2022, được tăng lương 2.5% và không được thưởng là phù hợp. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q là có căn cứ pháp luật, yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Q là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và tư cách đương sự: Cấp sơ thẩm xác định đúng và đầy đủ.

[2] Về yêu cầu kháng cáo:

[2.1] Về yêu cầu tiền lương chênh lệch năm 2023: Theo quy định tại Điều 103 Bộ luật lao động quy định “Chế độ nâng lương, nâng bậc, phụ cấp, trợ cấp và các chế độ khuyến khích đối với người lao động được thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc quy định của người sử dụng lao động”.

Đối chiếu với quy chế của công ty, Công ty TNHH M ban hành quy chế nâng lương với hình thức là “Bản liên lạc nghiệp vụ” về việc tăng lương thì mức tăng lương cho người lao động được xếp loại đánh giá từ loại A, B, C+, C, C -, D và E, với tỷ lệ tăng lương từ 6.5% xuống đến 2.5% tùy vào kết quả đánh giá, xếp loại của công ty đối với người lao động. Theo đó, nếu người lao động được đánh giá loại A thì được tăng 6.5%, loại B tăng 5.5% và loại E thì tăng 2.5%.

Quá trình làm việc, bà Q nhiều lần bị cấp quản lý đánh giá “Có hành vi cố tình không muốn làm việc, không tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên, gây cản trở cho việc quản lý nhân viên của cấp giám sát phòng linh kiện 1, ngoài ra còn làm ảnh hưởng đến các nhân viên khác làm chung trên công đoạn” được thể hiện qua các “Báo cáo sự việc” ngày 15/02/2022, ngày 28/3/2022, ngày 02/12/2022.

Ông C là đại diện theo ủy quyền của bà Q cho rằng, chuyên môn của bà Q là lắp ráp nên khi chuyển bà Q sang phòng linh kiện không thuộc chuyên môn của bà Q; do đó, bà Q không dám thao tác máy vì sợ xảy ra hư hỏng; nếu trường hợp công ty có văn bản cam kết việc bà Q thao tác máy nếu có xảy ra sự cố hư hỏng thì bà Q không phải chịu trách nhiệm thì bà Q mới thao tác máy. Tuy nhiên, tại văn bản số 223/CV-CDMBC ngày 20/01/2022 của Ban chấp hành Công đoàn Công ty TNHH M1 về việc “Phản hồi kết quả xác nhận thực tế tại nơi làm việc của nhân viên Nguyễn Thị Q”, theo bảng “Tập hợp các vấn đề liên quan nhân viên Nguyễn Thị Q” xác định các thao tác máy như khởi động máy, cấp linh kiện cho máy,... là những thao tác thông thường, không khó khăn nên mỗi nhân viên cùng lúc thao tác trên 04 máy theo quy định của Công ty; trường hợp khi phát sinh lỗi thông thường thì nhân viên đứng máy xử lý, khi phát sinh lỗi lớn nhân viên đứng máy không xử lý được thì bật đèn báo hiệu yêu cầu kỹ thuật viên xử lý. Ngoài ra, theo các “Bảng thực tích sản xuất nhân viên Q và nhân viên khác” thì số lượng sản phẩm thực tế của bà Q trong các tháng 3/2022, tháng 8/2022, tháng 10/2022, tháng 11/2022 là 0.

Căn cứ Quy chế của công ty là “Phương pháp đánh giá nhân sự dành cho nhân viên thao tác - áp dụng từ năm 2014”, trường hợp người lao động “Thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao” thì đánh giá loại E, căn cứ Quy chế nâng lương năm 2023 của công ty (Bản liên lạc nghiệp vụ ngày 07/01/2023 - đính kèm) thì người lao động bị đánh giá loại E được tăng lương 2,5%.

Theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và nội quy của công ty thì mỗi năm người lao động sẽ được tăng lương một lần và mức tăng lương tính theo kết quả đánh giá, xếp loại của công ty. Năm 2022, bà Q “Thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao”.

Như vậy, việc đánh giá, xếp loại của công ty đối với bà Nguyễn Thị Q loại E năm 2022 để tính mức nâng lương là phù hợp. Căn cứ Quy chế tăng lương của công ty, năm 2023 bà Q được tăng lương 2.5% với số tiền là 201.000đ (hai trăm linh một nghìn đồng). Do đó, việc công ty tăng lương cho bà Q theo mức 2.5% là đúng với quy định của pháp luật, đúng quy chế của công ty. Việc bà Q cho rằng công ty tăng lương cho bà Q không đúng quy định, bà Q yêu cầu công ty thanh toán cho bà mức lương chênh lệch 5.5% tương ứng đánh giá loại B là không có cơ sở.

[2.2] Về việc bà Q yêu cầu Công ty trả tiền thưởng năm 2022:

Căn cứ theo quy định tại Điều 104 Bộ luật lao động quy định về tiền thưởng như sau: “Tiền thưởng là số tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất, kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động”.

Việc áp dụng mức thưởng cuối năm 2022 của Công ty C1 vào kết quả đánh giá quá trình làm việc năm 2021; năm 2022 của người lao động.

Theo Quy chế thưởng của Công ty được sự thống nhất của BCH Công đoàn cơ sở thì trường hợp người lao động bị đánh giá loại E thuộc trường hợp: “Thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao” trong 02 năm liên tục sẽ không được chi trả thưởng. Áp dụng kết quả đánh giá năm 2021 trở về sau (kết quả đánh giá năm 2021 là năm thứ nhất).

Năm 2021 và năm 2022, bà Q không tuân thủ mệnh lệnh cấp trên, làm việc không tốt, nên công ty xét thuộc trường hợp: “Thường xuyên phát sinh vấn đề nghiêm trọng có liên quan đến tính tuân thủ, tính hợp tác, ý thức trách nhiệm và tính chính xác trong công việc được giao”, căn cứ theo quy chế thưởng thì do bà Q bị 02 năm liên tục, năm 2021 và năm 2022 đánh giá loại E nên Công ty không chi trả tiền thưởng cho bà Q là phù hợp quy chế công ty, quy định của pháp luật. Do đó, bà Q khởi kiện yêu cầu công ty phải trả tiền thưởng cuối năm 2022 là 22.974.336đ (hai mươi hai triệu chín trăm bảy mươi bốn nghìn ba trăm ba mươi sáu đồng) cho bà Q là cũng không có cơ sở.

[2.3] Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q là có căn cứ. Vì vậy, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Q, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Về án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Q có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

[4] Ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai về đường lối giải quyết vụ án phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, nhận định của Hội đồng xét xử và quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 90, Điều 103, Điều 104 Bộ luật Lao động; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q. Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số: 09/2023/LĐ-ST ngày 20/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Q đối với bị đơn Công ty TNHH M về việc “Tranh chấp tiền lương, tiền thưởng”.

2. Về án phí:

Bà Nguyễn Thị Q được miễn án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp tiền lương.

Bà Nguyễn Thị Q phải chịu 689.230 đồng (sáu trăm tám mươi chín nghìn hai trăm ba mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tiền thưởng.

Bà Nguyễn Thị Q được miễn án phí dân sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp tiền lương, tiền thưởng số 02/2024/DS-PT

Số hiệu:02/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;