TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 23/2024/DS-PT NGÀY 19/01/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 17 và 19 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số 462/2023/TLPT-DS ngày 16 tháng 8 năm 2023, về việc: “Tranh chấp đòi tài sản là QSD đất; Yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đất”, giữa các bên đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hữu H, sinh năm 1971; Địa chỉ: 2 N, phường Р, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Phan Thành T, sinh năm 1982; Địa chỉ: B N, ấp A, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
Bị đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1959; Địa chỉ: A tổ A, ấp B, xã L, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo ủy quyền: Bà Võ Thị Xuân C, sinh năm 1972; Địa chỉ: số F Đ, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trang Tấn C1, sinh năm 1947; Địa chỉ: E X, phường B, quận B, Tp .; Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lưu Thị Hoài P, sinh năm 1997; Địa chỉ: Số F Đ, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Có VB xin vắng mặt).
2/ Bà Trang Thúy K, sinh năm 1989; Địa chỉ: A tổ A, ấp B, xã L, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; Trụ sở: 330 N, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Phan Lê N, Phó Chủ tịch UBND huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh (Có VB xin vắng mặt).
Người làm chứng: Ông Nguyễn Duy Vũ H1, sinh năm 1996; Địa chỉ: 1 (tầng C) T, phường C, Q.1, Tp ..
Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị D là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn và lời khai của phía nguyên đơn trình bày:
Năm 2017, bà Nguyễn Thị Hữu H nhận chuyển nhượng hợp pháp từ ông Nguyễn Duy Vũ Hoàng P đất thuộc thửa đất số 560, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp B, xã L, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bà H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BV313185, số vào sổ cấp GCN: CH02417 do UBND huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi ngày 28/9/2017.
Tháng 9/2018, bà H tiến hành xây dựng hàng rào theo Thông báo xây dựng số 252/TB-UBND do Ủy ban nhân dân xã L, huyện N cấp ngày 30/7/2018 thì bà Nguyễn Thị D ngăn cản vì theo bà D một phần thửa đất thuộc quyền sử dụng của bà D.
Các bên đã hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện N nhưng không thành.
Theo Bản vẽ hiện trạng vị trí xác định ranh ngày 11/5/2020 thì phần diện tích đã lấn chiếm là 197,3m2. Nay, bà H yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị D phải trả lại 197,3m2 đất lấn chiếm và buộc bà D chấm dứt hành vi cản trở đối với việc bà H thực hiện quyền sở hữu đối với thửa đất số 560, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp B, xã L, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.
Sau đó, nguyên đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện vì sau khi Công ty TNHH K2 Sông Tiền đo vẽ lại thì tại Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh ngày 16/5/2023 phần lấn ranh lên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên đơn chỉ là 190,9m2 nên nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả lại phần diện tích này. Ngoài ra trên bản vẽ xác định có một phần diện tích chồng ranh của hai giấy chứng nhận là 0,5m2. Nguyên đơn tự nguyện không tranh chấp phần này, giữ nguyên giấy chứng nhận của bị đơn và sẽ tự liên hệ để điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H trừ đi phần chồng ranh.
Phía nguyên đơn thống nhất giá trị quyền sử dụng đất đang tranh chấp theo Chứng thư thẩm định số 2030/2021/CT ngày 02/12/2021 của Công ty TNHH T5.
Theo đơn và lời khai của phía bị đơn trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp là của bà Hà Thị T1 và ông Trang Tấn K1 (bố mẹ chồng bà D) quản lý sử dụng trước năm 1975 nhưng do không hiểu biết, lớn tuổi nên khi bà Hà Thị T1 được cấp 12.415m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng số 0,0054/QSDĐ ngày 26/7/2002 bà đã không kiểm tra kỹ về đường ranh giới đất, việc cấp giấy chứng nhận không có phần diện tích đất tranh chấp này.
Do đó, khi ông Trang Tấn T2 được mẹ tặng cho phần đất 4.507m2 đất cũng không bao gồm phần đất tranh chấp trên giấy chứng nhận, mặc dù gia đình ông vẫn sử dụng phần đất này từ trước đến nay.
Bà D hoàn toàn không biết ông Nguyễn Duy Vũ H1 đã được cấp giấy chứng nhận và chuyển nhượng lại cho bà H trong đó có phần đất mà gia đình bà D chưa được cấp giấy chứng nhận, cho đến khi bà H xuống tiến hành xây dựng làm hàng rào đất thì bà D mới biết.
Ngày 18/9/2020, bà D có yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất sô BV313185, số vào sổ cấp GCN: CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi ngày 28/9/2017 và công nhận quyền sở hữu đối với diện tích 197,3m2 thuộc một phần thửa đất số 560, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp B, xã L, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh là của ông Trang Tấn K1 và bà Hà Thị T1. Thực hiện việc chứng nhận phần diện tích trên cho các đồng thừa kế di sản của ông K1 và bà T1.
Ngày 23/8/2022, bà D có yêu cầu phản tố bổ sung: Yêu cầu thu hồi 197,3m2 đất tranh chấp, hủy những Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích đã cấp trước đây số U431222 cho ông Phan Văn H2; số H00481 và AK617399 đứng tên bà Đặng Thị T3; Giấy chứng nhận số BV298091 thửa 560, BV298092 thửa 561 đứng tên ông Trần Văn T4 và bà Vũ Thị C2, cập nhật tên ông Nguyễn Duy Vũ H1.
Phía bị đơn thống nhất giá trị quyền sử dụng đất đang tranh chấp theo chứng thư thẩm định số 2030/2021/CT ngày 02/12/2021 của Công ty TNHH T5.
Những người có quyền, nghĩa vụ liên quan trình bày:
Người đại diện theo ủy quyền của ông Trang Tấn C1 trình bày: Thống nhất với ý kiến trình bày của bà D. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu phản tố của bà D. Trường hợp Tòa án xác định phần phần diện tích 197,3m2 là di sản của ông Trang Tấn K1 và bà Hà Thị T1 thì ông đồng ý để cho bà D tiếp tục quản lý sử dụng phần diện tích ông được hưởng để bà D lo hương hỏa cho ông bà, cha mẹ. Bà D được toàn quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bà Trang Thúy K trình bày: Bà là con của ông T2, bà D, nay bà đồng ý với ý kiến của mẹ bà và đồng ý tặng cho bà D phần thừa kế bà được hưởng, bà D được toàn quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kê khai và đứng tên trên Giấy chứng nhận phần đất tranh chấp.
Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh: Không có văn bản trình bày ý kiến.
Người làm chứng ông Nguyễn Duy Vũ H1: Tòa án đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 859/2023/DS-ST ngày 02/6/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hữu H.
2/ Không xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn về thu hồi phần đất tranh chấp và hủy những Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp số U431222 cho ông Phan Văn H3; Giấy chứng nhận số H00481 và AK617399 đứng tên bà Đặng Thị T3; Giấy chứng nhận số BV298091 thửa 560, BV298092 thửa 561 đứng tên ông Trần Văn T4 và bà Vũ Thị C2, cập nhật tên ông Nguyễn Duy Vũ H1.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gan liền với đất số CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014; Yêu cầu Tòa án xác định phần diện tích đất tranh chấp là di sản của ông Trang Tấn K1 và bà Hà Thị T1 và yêu cầu chia tài sản thừa kế.
3/ Buộc bà Nguyễn Thị D tháo dỡ hàng rào lấn chiếm trả lại cho bà Nguyễn Thị Hữu H4 190,9m2 tại vị trí 13, 15 theo Bản đồ hiện trạng vị trí, xác định ranh do Công ty TNHH K2 Sông Tiền lập ngày 16/5/2023.
4/ Ghi nhận sụ tự nguyện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hữu H5 không tranh chấp phần diện tích chồng ranh 0,5m2 của hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ548555, số vào sổ cấp giấy GCN: CH01694 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/2013, đăng ký thay đổi ngày 03/12/2015 sang tên bà Nguyễn Thị D. Bà Nguyễn Thị Hữu H có trách nhiệm liên hệ cập nhật lại ranh, vị trí, toạ độ đất cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất so CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014.
Cơ quan có thẩm quyền có nghĩa vụ điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất so CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H5 ngày 07/7/2017 trừ đi phần diện tích chồng lấn ranh với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ 548555, số vào sổ cấp giấy GCN: CH01694 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/2013, đăng ký thay đổi ngày 03/12/2015 của bà Nguyễn Thị D.
Ngoài ra án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề liên quan đến án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 15/6/2023, bà Nguyễn Thị D làm đơn kháng cáo, nêu lý do: Bản án sơ thẩm không thỏa đáng, gây thiệt hại quyền lợi của bà, yêu cầu phúc xử lại hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Phía nguyên đơn đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Phía bị đơn cho rằng, ông H1 là người bán đất cho bà H nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền, nghĩa vụ liên quan là chưa đúng quy định pháp luật, quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm có người đứng ra nhận là chủ mua bán đất này chứ không phải đất của bà H nhưng Tòa án sơ thẩm không thu thập chứng cứ này, diện tích đất tranh chấp hiện nay bà D là người đang trực tiếp quản lý sử dụng chứ không phải bà H, khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận cho bà H UBND đã không đo vẽ ranh đất và không ký giáp ranh. Nên đề nghị hủy án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm cho rằng; Về thủ tục tố tụng: Tòa án cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, những người tham gia phiên tòa cũng đã được thực hiện đầy đã các quyền, nghĩa vụ của mình theo luật định; Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm, vì các lý do kháng cáo không có cơ sở chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa nghe đương sự trình bày và nghe Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị D làm trong hạn luật định, nên thủ tục kháng cáo hợp lệ.
[2] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo:
[2.1] Phía bị đơn kháng cáo cho rằng, nguồn gốc đất tranh chấp là của bà Hà Thị T1 và ông Trang Tấn K1 quản lý sử dụng trước năm 1975 nhưng do không hiểu biết nên khi bà Hà Thị T1 được cấp 12.415m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng số 0054/QSDĐ ngày 26/7/2002 không có phần diện tích này. Do đó, khi ông Trang Tấn T2 được mẹ tặng cho phần đất 4.507m2 đất cũng không bao gồm phần đất này trên giấy chứng nhận, mặc dù gia đình ông bà vẫn sử dụng phần đất này từ trước đến nay.
[2.2] Ngoài ra bị đơn có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận số BV313185, số vào sổ cấp GCN: CH02417 do UBND huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017, xác định phần đất tranh chấp là tài sản của ông Trang Tấn K1 và bà Hà Thị T1 và yêu cầu chia thừa kế phần diện tích này cho các đồng thừa kế của ông K1, bà T1 và ghi nhận những người thừa kế này cho bà D phần đất trên.
[2.3] Theo Điều 4 Luật đất đai năm 2013 quy định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này.
Theo khoản 2 Điều 26 Luật Đất đai năm 2013 quy định về việc đảm bảo của Nhà nước đối với người sử dụng đất như sau: ...cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi đủ điều kiện theo quy định của pháp luật...
[2.4] Căn cứ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BV313185, số vào sổ cấp GCN: CH02417 do UBND huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017 có nguồn gốc được chuyển nhượng hợp pháp từ ông Nguyễn Duy Vũ H1.
[2.5] Căn cứ Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh ngày 16/5/2023 của Công ty TNHH K2 thì phần diện tích đất trùng ranh, căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017 chỉ có 191,3m2.
Phần diện tích đất ở vị trí số thứ tự 9, 10, 14 là phần ao có diện tích 6m2 là phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của bà D và lấn sang phần đất bên cạnh, không nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV313185, số vào sổ cấp GCN: CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017. Trong đó, phần diện tích 191,3m2 này còn có 0,4m2 trùng ranh giữa hai giấy chứng nhận. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định phần diện tích mà bị đơn đang sử dụng lấn chiếm phần diện tích theo giấy chứng nhận của bà H là 190,9m2 là có căn cứ và các bên đương sự cũng thống nhất đồng ý với bản vẽ này.
Do không có căn cứ xác định phần diện tích tranh chấp 190,9m2 thuộc quyền sử dụng của ông Trang Tấn K1 và bà Hà Thị T1. Nên Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02417 do UBND huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017, xác định phần diện tích đất tranh chấp không là di sản nên không chấp nhận yêu cầu chia thừa kế phần diện tích đất này và buộc bà Nguyễn Thị D có nghĩa vụ trả phần diện tích đất này cho bà Nguyễn Thị Hữu H là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2.6] Theo hai Bản đồ hiện trạng vị trí xác định ranh của Trung tâm đo đạc bản đồ ngày 11/5/2020 và của Công ty TNHH K2 Sông Tiền ngày 16/5/2023 thì việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ548555, số vào sổ cấp giấy GCN: CH01694 do UBND huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/2013, đăng ký thay đổi ngày 03/12/2015 sang tên bà Nguyễn Thị D có một phần diện tích là 0,5m2 (trong đó có chỗ chiều rộng lớn nhất là 0,1m) bị chồng ranh.
Phía nguyên đơn tự nguyện đồng ý không tranh chấp phần này, đề nghị giữ nguyên giấy chứng nhận cho bị đơn, nguyên đơn sẽ tiến hành thủ tục cập nhật lại sổ, sự tự nguyện trên của nguyên đơn là có lợi cho phía bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện này là phù hợp quy định pháp luật.
[2.7] Bà D có yêu cầu phản tố bổ sung, đề nghị Tòa án thu hồi phần đất tranh chấp đã cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số U431222 đã cấp cho ông Phan Văn H2, Giấy chứng nhận số H00481 và AK617399 đứng tên bà Đặng Thị T3, Giấy chứng nhận số BV298091 thửa 560, BV298092 thửa 561 đứng tên ông Trần Văn T4 và bà Vũ Thị C2, cập nhật tên ông Nguyễn Duy Vũ H1.
Tòa án cấp sơ thẩm xác định yêu cầu phản tố bổ sung này của bị đơn đã vượt quá yêu cầu phản tố ban đầu, tại thời điểm yêu cầu phản tố phần diện tích đất đang tranh chấp không còn thuộc quyền quản lý, sử dụng của các ông bà Phan Văn H2; Đặng Thị T3; Trần Văn T4, Vũ Thị C2 và Nguyễn Duy Vũ H1 mà phần diện tích tranh chấp này hiện được cấp Giấy chứng nhận số CH02417 Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, cập nhật đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H ngày 07/7/2017 và đang được xem xét giải quyết đối yêu cầu của bà D về việc đòi hủy giấy chứng nhận phần đất này cấp cho bà H.
Do đó, yêu cầu phản tố bổ sung về thu hồi đất đối với các ông bà Phan Văn H2; Đặng Thị T3; Tràn Văn T4, Vũ Thị C2 và Nguyễn Duy Vũ H1, không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận là phù hợp, vì những người này thực tế không còn sử dụng đất tranh chấp nêu trên.
[2.8] Phía bị đơn kháng cáo, nhưng cũng không đưa ra được những tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên không có cơ sở chấp nhận [3] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
[4] Về án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí theo luật định. Bà D là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự phúc thẩm theo luật định.
Bởi các lẽ trên; Căn cứ Điều 308 Bộ Luật tố tụng Dân sự.
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị D. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng Điều 26, Điều 37, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 24 Điều 3, Điều 4, Khoản 3 Điều 17, Khoản 2 Điều 27 Luật Đất đai năm 2013; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyên Thị Hữu H.
2/ Không xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn về thu hồi phần đất tranh chấp và hủy những Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp số U431222 cho ông Phan Văn H2; Giấy chứng nhận số H00481 và AK617399 đứng tên bà Đặng Thị T3; Giấy chứng nhận số BV298091 thửa 560, BV298092 thửa 561 đứng tên ông Trần Văn T4 và bà Vũ Thị C2, cập nhật tên ông Nguyễn Duy Vũ H1.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014; Yêu cầu Tòa án xác định phần diện tích đất tranh chấp là di sản của ông Trang Tấn K1 và bà Hà Thị T1 và yêu cầu chia tài sản thừa kế.
3/ Buộc bà Nguyên Thị D1 tháo dỡ hàng rào lấn chiếm trả lại cho bà Nguyễn Thị Hữu H4 190,9m2 tại vị trí 13, 15 theo Bản đồ hiện trạng vị trí, xác định ranh do Công ty TNHH K2 Sông Tiền lập ngày 16/5/2023.
4/ Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hữu H không tranh chấp phần diện tích chồng ranh 0,5m2 của hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ548555, số vào sổ cấp giấy GCN: CHO 1694 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/2013, đăng ký thay đổi ngày 03/12/2015 sang tên bà Nguyễn Thị D. Bà Nguyễn Thị Hữu H có trách nhiệm liên hệ cập nhật lại ranh, vị trí, toạ độ đất cho Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014.
Cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CH02417 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 17/12/2014, đăng ký thay đổi sang tên bà Nguyễn Thị Hữu H5 ngày 07/7/2017 trừ đi phần diện tích chồng lấn ranh với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ 548555, số vào sổ cấp giấy GCN: CH01694 do Ủy ban nhân dân huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09/10/2013, đăng ký thay đổi ngày 03/12/2015 của bà Nguyễn Thị D, theo quy định của pháp luật.
5/ Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật thi hành.
6/ Án phí dân sự phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà D.
7/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 23/2024/DS-PT về tranh chấp đòi tài sản là quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 23/2024/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 19/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về