TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 110/2022/DS-PT NGÀY 09/09/2022 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 09 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 75/2022/TLPT-DS ngày 14 tháng 6 năm 2022, về việc “tranh chấp đòi quyền sử dụng đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2022/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B bị kháng cáo; kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 65/2022/QĐ-PT ngày 08 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Võ Thị K, sinh năm: 1977. Địa chỉ: Ấp B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B (có mặt).
- Bị đơn: Bà Tạ Thị B, sinh năm: 1977 Địa chỉ: Ấp B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Tạ Thị B: Ông Nguyễn Duy Sơn là Luật sư Công ty luật TNHH MTV Thái Sơn, thuộc đoàn luật sư tỉnh B (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Văn M, sinh năm: 1965. Địa chỉ: Ấp B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B (vắng mặt).
2. Ông Đặng Thanh T, sinh năm: 1975. Địa chỉ: Ấp B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Võ Thị K.
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn bà Võ Thị K trình bày: Nguồn gốc đất tranh chấp giữa các bên là của chị chồng bà là bà Đặng Thị L và ông Trương Văn X chuyển nhượng lại cho bà cách nay khoảng 10 năm, diện tích 93,5 m2. Ngoài ra, bà L và ông X còn cho bà thêm phần diện tích 10,8m2 (ngang 3,6 m, dài 3m). Từ sau khi nhận chuyển nhượng xong thì bà quản lý, sử dụng xuyên suốt cho đến cuối năm 2018 thì bà B lấn chiếm cất nhà trên đất của bà. Cụ thể bà B đã xây dựng bảng hiệu lấn qua đất của bà 04 cm, xây dựng hàng gạch lấn qua 18 cm bên phải và hàng gạch lấn 15 cm bên trái (phía sau nhà); phần bê tông diện tích 15 cm (được thể hiện qua các bản ảnh mà bà cung cấp cho tòa án). Tổng diện tích bà B và ông M lấn chiếm là 8m2, phần diện tích đang tranh chấp này bà đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà là Võ Thị K vào năm 2013. Nay bà yêu cầu bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M phải tháo dỡ công trình trên đất gồm bảng hiệu 04 cm, hàng gạch lấn 18 cm bên phải và hàng gạch lấn 15 cm bên trái (phía sau nhà); phần bê tông diện tích 15 cm để trả lại cho bà diện tích 8m2 tại thửa đất số 42 tờ bản đồ số 52 đất tọa lạc tại ấp thị trấn B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B. Ngoài ra, bà có ý kiến đề nghị Tòa án xem xét xử đất của bên nào thì bên đó sử dụng đúng theo quyền sử dụng đất đã được cấp theo quy định của pháp luật. Ngày 22/04/2022 bà Võ Thị K có đơn xin rút yêu cầu khởi kiện đối với diện tích 0,3 m2 đất và chỉ yêu câu đối với diện tích 7,7 m2.
Bị đơn bà Tạ Thị B trình bày: Nguồn gốc đất đan tranh chấp giữa các bên là của bà chuyển nhượng lại của ông Phạm Văn U cư ngụ tại ấp 18, xã V, huyện H, tỉnh B vào năm 2018 diện tích 300 m2. Sau khi sang nhượng xong thì bà cất nhà kho chứa hàng cho đến nay. Phần đất này bà đã đăng ký kê khai và được Ủy ban nhân dân huyện H cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Tạ Thị B vào năm 2018. Nay bà Võ Thị K cho rằng bà lấn đất của bà K và yêu cầu bà phải tháo dỡ công trình cụ thể gồm bảng hiệu 04 cm, hàng gạch lấn 18 cm bên phải và hàng gạch lấn 15 cm bên trái (phía sau nhà); phần bê tông diện tích 15 cm để trả lại cho bà K diện tích 7,7 m2 tại thửa đất số 42 tờ bản đồ số 52 đất tọa lạc tại ấp thị trấn B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B thì bà không đồng ý vì bà mua đất và xây cất đủ diện tích không lấn chiếm đất của bà K mặt khác bà K là người cất nhà trước bà.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2022/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị K đòi bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M trả lại phần diện tích đất lấn chiếm là 1m2 đất, tại thửa số 42, tờ bản đồ số 52, đất tọa lạc tại ấp Thị Trấn B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B.
Buộc bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M có trách nhiệm trả giá trị phần diện tích đất lấn chiếm là 1m2 với số tiền là 3.800.000 đồng cho bà Võ Thị K.
2. Bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M được quyền quản lý sử dụng đối với 1m2 đất nằm trong giấy chứng nhận QSD đất của bà K tại thửa đất số 42, tờ bản đồ số 52 đất tọa lạc tại ấp Thị Trấn B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B.
Phần đất này bà B và ông Mẫn đang quản lý sử dụng nên tiếp tục được quản lý, sử dụng 3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị K kiện đòi bà Tạ Thị B diện tích 6,7m2 tại thửa đất số 42 tờ bản đồ số 52 đất tọa lạc tại ấp thị trấn B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B 4. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị K đối với bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M phần diện tích đất lấn chiếm là 0,3m2, do bà K đã rút lại một phần yêu cầu khởi kiện vào ngày 22/4/2022.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá, về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 09 tháng 5 năm 2022, nguyên đơn bà Võ Thị K kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xác minh lại các cạnh đo của diện tích đất tranh chấp do chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện H đo đạt và yêu cầu bà Tạ Thị B, ông Võ Văn M trả lại diện tích đất lấn chiếm là 7,7m2. Tại phiên tòa phúc thẩm bà K giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ngày 25 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 05/QĐKNPT – VKS - DS kháng nghị sửa Bản án sơ thẩm dân sự số 09/2022/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị K; việc Tòa án cấp sơ thẩm giao phần đất 1m2 cho vợ chồng bà B, ông M quản lý, sử dụng nhưng không tuyên bà B, ông M được quyền kê khai, đăng ký để cấp quyền sử dụng đất là chưa giải quyết toàn diện vụ án; đồng thời bản án sơ thẩm chỉ buộc vợ chồng bà B, ông M chịu chi phí đo đạc, thẩm định là chưa đảm bảo theo quy định của pháp luật.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Tạ Thị B trình bày: Phần đất của bà K nhận chuyển nhượng, đăng ký và sử dụng không đúng thì bà K có thể yêu cầu cơ quan cấp đất xem xét giải quyết. Thực tế phần đất bà K sử dụng nhiều hơn đất được cấp. Như vậy, xác định mốc giới chỗ nào để xác định bà B lấm đất, bà K không có căn cứ chứng minh bà B lấn đất, nên yêu cầu không chấp nhận kháng cáo của bà K. Đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B căn cứ vào số đo phần đất mặt trước theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đo đạc thực tế là không có căn cứ.
Quan điểm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B tại phiên tòa:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi xét xử phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Võ Thị K, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, sửa Bản án sơ thẩm dân sự số 09/2022/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến tranh luận của các đương sự và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị K và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B trong hạn luật định, nên được thụ lý, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Văn M, ông Đặng Thanh T vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.
[2] Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Võ Thị K và Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B về việc yêu cầu chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K. Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bà K xác định nguồn gốc phần đất bà sử dụng do bà nhận chuyển nhượng của bà Đặng Thị L và ông Trương Văn X cách nay khoảng 10 năm với diện tích 93,5m2, ngoài ra bà Lệ và ông X còn cho bà thêm phần đất phía sau ngang 3,6m dài 3m, diện tích là 10,8m2; năm 2018 bà B lấn chiếm 7,7m2, nên yêu cầu Tòa án xét xử buộc bà B giao trả. Còn bà B xác định phần đất bà đang sử dụng do bà nhận chuyển nhượng của ông Phạm Văn U vào năm 2018, diện tích 300m2, bà B xác định không lấn đất của bà K nên không đồng ý giao trả.
Phần đất bà K được Ủy ban nhân dân huyện H cấp quyền sử dụng đất tử dụng đất diện tích 93,5m2, tại thửa số 42, tờ bản đồ số 52 vào ngày 20/6/2013. Theo đó, chiều ngang hướng Nam có số đo 4m, chiều ngang hướng Bắc có số đo 3,6m, chiều dài 02 hướng Đông và Tây bằng nhau có số đo 24,62m.
Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ phần đất bà K đang quản lý sử dụng hiện nay hướng nam giáp Quốc lộ 1A có số đo 3,78m; hướng bắc giáp đất ông Trương Vinh Xiêm có số đo 3,24m Từ khi bà K được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bà K nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Tòa án được công khai chứng cứ, nhưng bà B không có phản bác hay bất cứ khiếu nại gì.
Mặt khác, quá trình tham gia tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành đo đạc, thẩm định phần đất tranh chấp 02 lần, tuy nhiên bà B phản đối, không đồng ý cho tiến hành đo đạc, thẩm định tài sản tranh chấp. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử động viên để tiến hành đo đạc phần đất tranh chấp, nhưng bà B cương quyết không đồng ý.
Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào tài liệu chứng cứ do bà K nộp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà K, đối chiếu với Mảnh trích đo địa chính ngày 12/4/2022 thể hiện phần đất bà K đang sử dụng ngang phía nam có số đo 3,78m, chiều ngang phía bắc có số đo 3,24m. Như vậy, phần đất bà K sử dụng thiếu so với giấy chứng nhận được cấp ngang phía nam 0,22m, ngang phía bắc có số đo 0,36m. Thực tế đo đạc có chiều dài 26,63m thì bà K sử dụng thiếu 7,7m.
Xét thấy, xung quanh phần đất tranh chấp hai bên, tức là hướng đông và hướng tây đều do bà B đang quản lý, sử dụng, nên Hội đồng xét xử có căn cứ xác định bà B lấn chiếm phần đất bà K diện tích 7,7m2. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà K và kháng nghị của Kiện kiểm sát nhân dân tình Bạc Liêu, về việc buộc vợ chồng bà B, ông Mẫn có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời tài sản trên đất để giao trả phần đất diện tích 7,7m2 cho bà K là phù hợp quy định của pháp luật.
[3] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B về việc Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên vợ chồng bà B, ông Mẫn có quyền kê khai, đăng ký để cấp quyền sử dụng theo quy định pháp luật và chỉ buộc vợ chồng bà B, ông M chịu chi phí đo đạt. Xét thấy, do có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà K, nên các nội dung này không còn ảnh hưởng đến quyền lợi của bà B, ông M.
[4] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử có căn chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị K, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, sửa Bản án dân sự sơ thẩm 09/2022/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B.
[5] Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản bà Võ Thị B và ông Võ Văn M phải chịu toàn bộ.
[6] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Võ Thị K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà K đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0014799 ngày 08/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, được hoàn lại.
Bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M phải chịu 300.000 đồng nộp tại chi cục thi hành án huyện H, tỉnh B.
Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Võ Thị K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Bà đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003101 ngày 09/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh B, được hoàn lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 165 và khoản 2 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ Điều 203 Luật đất đai năm 2013. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị K, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, sửa Bản án dân sự sơ thẩm 09/2022/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh B.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị K đòi bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M trả phần đất diện tích đất lấn chiếm là 7,7m2 đất, tại thửa số 42, tờ bản đồ số 52, đất tọa lạc tại ấp Thị Trấn B, thị trấn H, huyện H, tỉnh B.
Buộc bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M có trách nhiệm tháo dỡ, di dời tài sản trên đất trả lại diện tích đất lấn chiếm là 7,7m2 cho bà Võ Thị K.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị K đối với bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M phần diện tích đất lấn chiếm là 0,3m2, do bà K đã rút lại một phần yêu cầu khởi kiện vào ngày 22/4/2022.
3. Chi phí xem xét, thẩm định và định giá tài sản tranh chấp bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M phải chịu là 4.203.000 đồng nộp tại chi cục thi hành án huyện H. Bà Võ Thị K đã dự nộp tạm ứng 4.203.000 đồng được nhận lại từ số tiền mà bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện H.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Võ Thị K không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Bà K đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0014799 ngày 08/5/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện H, được hoàn lại.
Bà Tạ Thị B và ông Võ Văn M phải chịu 300.000 đồng nộp tại chi cục thi hành án huyện H, tỉnh B.
[4.2] Án phí dân sự phúc thẩm:
Bà Võ Thị K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Bà đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0003101 ngày 09/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh B, được hoàn lại.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất số 110/2022/DS-PT
Số hiệu: | 110/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về