Bản án về tranh chấp đòi nhà, yêu cầu công nhận di chúc và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu số 190/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 190/2024/DS-PT NGÀY 18/03/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI NHÀ, YÊU CẦU CÔNG NHẬN DI CHÚC VÀ YÊU CẦU TUYÊN BỐ VĂN BẢN CÔNG CHỨNG VÔ HIỆU

Trong các ngày 11 và ngày 18 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 640/2023/TLPT-DS ngày 05 tháng 12 năm 2023 về việc: “Tranh chấp về đòi nhà, yêu cầu công nhận di chúc và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 340/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân Quận 10 bị kháng cáo và kháng nghị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 01 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 2142/2024/QĐPT-DS ngày 22 tháng 01 năm 2024 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 921/2024/QĐ-PT ngày 27 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lưu Diệu P, sinh năm 1981.

Địa chỉ: 3 L, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Bà Chiếng Thị Băng T, sinh năm 1978.

Địa chỉ: 2 Bà H Phường I Quận A Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trương Lê Cảnh T1, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Ấp A, phường Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Ông Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1976.

Địa chỉ: 2 Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

3.2. Văn phòng Công chứng Nguyễn Lê Nghĩa Địa chỉ: E L, Phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Lê Thị Minh N, sinh năm 1954.

3.3. Văn phòng C2 Địa chỉ: D Hồ N, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Người kháng cáo: Bà Chiếng Thị Băng T - Bị đơn.

5. Người kháng nghị: Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Lưu Diệu P trình bày:

Nhà, đất tại địa chỉ 2 B H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh có nguồn gốc của ông P nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Mạnh C theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tại Văn phòng C2. Sau khi nhận chuyển nhượng ông C đã bàn giao nhà đất cùng giấy tờ. Ông P đã được cập nhập biến động ngày 23/5/2019 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và quyền sở hữu nhà ở vào sổ cấp GCN CH01036 06/10/2014 của Ủy ban nhân dân Quận A.

Khi nhận bàn giao nhà thì bà Chiếng Thị Băng T là em của ông C xin cư trú thêm vài ngày để chuyển đi. Nhưng sau đó bà T không đồng ý chuyển. Nay ông P khởi kiện yêu cầu bà Chiếng Thị Băng T giao trả lại nhà đất trên và ông P tự nguyện hỗ trợ bà T số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để di dời chỗ ở.

Bị đơn bà Chiếng Thị Băng T trình bày:

Nhà đất số B Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh là di sản của bà Lê Thị Bé T2 chết để lại cho con là bà T và ông Nguyễn Mạnh C theo di chúc số 17627 lập ngày 26/9/2016 tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4).

Bà T cho rằng hợp đồng tặng cho nhà đất trên vào ngày 13/7/2017 giữa bà Lê Thị Bé T2 và ông Nguyễn Mạnh C lập tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4) có dấu hiệu gian dối vì: Bà Lê Thị Bé T2 là người biết chữ nhưng trong hợp đồng tặng cho này lại không thấy đóng chữ nào của bà T2 và tại sao lại cần người làm chứng để tặng cho. Anh bà là ông C nghiện ma túy thì bà T2 không thể ký tặng cho riêng một mình ông C.

Còn hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở lập ngày 08/3/2019 tại Văn phòng C2 giữa ông C và ông Lưu Diệu P chưa hợp pháp vì xuất phát từ sự gian dối lập hợp đồng tặng cho nêu trên, ông C mới nhận được 02 lần tiền tổng cộng là 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng. Trong đó lần 1 là 150.000.000 (một trăm năm mươi triệu) đồng và lần 2 là 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng, chứ chưa nhận hết số tiền 1.500.000.000 (một tỉ, năm trăm triệu) đồng như đã ghi trong hợp đồng.

Vì những lý do trên bà T có yêu cầu phản tố yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

- Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số 11337 ngày 13/7/2017 tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng công chứng Nguyễn Lê N1) và hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở số 002251 ngày 08/3/2019 tại Văn phòng C2.

- Yêu cầu hủy việc cập nhập tặng cho nhà do Chi nhánh Văn phòng C3 ký ngày 28/7/2017.

- Yêu cầu hủy việc cập nhập chuyển nhượng nhà do Chi nhánh Văn phòng C3 ký ngày 23/5/2019.

- Yêu cầu công nhận di chúc số 17627 quyền số 09 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 26/9/2016 lập tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4).

Đồng thời bà T không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Mạnh C trình bày:

Ông C xác nhận nhà đất tại địa chỉ 2 B H, Phường I, Quận A có nguồn gốc là của mẹ tặng cho ông và ông đã chuyển nhượng lại cho ông P vào ngày 08/3/2019 tại Văn phòng C2, sau khi chuyển nhượng ông xin ở lại nhà đất trên vì mẹ ông bị bệnh không thể chuyển chỗ ở. Trong thời gian mẹ ông bị bệnh thì chỉ ông là bà T có đến ở để chăm mẹ bệnh. Thời gian đầu bà T di chuyển từ nhà chồng qua nhà 292/8 Bà H, Phường I, Quận A để chăm mẹ, thời gian sau mẹ ông bệnh nặng thì bà T qua ở luôn. Số tiền bán nhà cho ông P ông dùng để lo cho mẹ bệnh. Việc mẹ ông tặng cho ông nhà đất và ông chuyển nhượng cho ông P thì bà T có biết. Việc ông chuyển nhượng nhà đất cho ông P là hoàn toàn tự nguyện, lúc đó mẹ ông cũng biết và đồng ý cho ông bán. Nay ông P yêu cầu bà T giao trả nhà ông đồng ý, vì ông đã chuyển nhượng cho ông P.

Đối với yêu cầu phản tố của bà T ông không đồng ý, vì việc mẹ ông tặng cho ông nhà đất và việc ông chuyển nhượng nhà đất cho ông P là hoàn toàn hợp pháp. Bản di chúc mà mẹ ông lập trước đây là do bà T đưa mẹ ông đi lập tại Văn phòng công chứng lúc ông không có ở nhà, khi ông về nhà thì mẹ ông đã lập hợp đồng tặng cho ông nhà đất trên.

Việc ông chuyển nhượng nhà đất cho ông P là hợp pháp đề nghị Tòa án công nhận, còn việc mua bán nhà số tiền thiếu đủ như thế nào ông sẽ yêu cầu sau, ông không yêu cầu giải quyết trong vụ án này.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C4 (trước đây là Văn phòng C3) có bà Lê Thị Minh N đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 13/7/2017 tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4) bà Lê Thị Bé T2 và ông Nguyễn Mạnh C có mặt tại Văn phòng công chứng để ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất tọa lạc tại số B Bà H, Phường I, Quận A, việc ký kết hợp đồng có người chứng kiến là ông Võ Nhật T3. Tại thời điểm ký hợp đồng, các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật và xuất trình đầy đủ các giấy tờ liên quan. Phía công chứng viên đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Việc bà T yêu cầu Tòa án hủy văn bản công chứng nêu trên, phía Văn phòng công chứng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C2 trình bày:

Vào ngày 08/3/2019 Văn phòng C2 đã thực hiện việc chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở tọa lạc tại địa chỉ 2 Bà H, Phường I, Quận A giữa bên bán là ông Nguyễn Mạnh C và bên mua là ông Lưu Diệu P. Văn phòng công chứng xác nhận việc chứng nhận hợp đồng trên là hợp pháp và đúng pháp luật. Nay các đương sự có tranh chấp yêu cầu tuyên hủy văn bản công chứng nêu trên phía Văn phòng C2 không có ý kiến hay yêu cầu gì và xin vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Nội dung văn bản công chứng là Hợp đồng đặt cọc để đảm bảo cho việc chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng thửa đất 303, thửa 309 và thửa 308-1 tờ bản đồ 03, tọa lạc tại thị trấn C, huyện C theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim T4, ông Nguyễn An N2 và bà Nguyễn Kim P1. Tại thời điểm giao kết ông N2, bà T4 và bà P1 là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy định của pháp luật, đã đồng ý nội dung văn bản và đọc lại cũng như xác nhận ký tên, điểm chỉ trên văn bản công chứng. Nội dung văn bản đúng với quy định pháp luật, không trái với đạo đức xã hội. Như vậy, Văn phòng C5 chứng nhận Hợp đồng đặt cọc số 009159 ngày 28/6/2017 nêu trên hoàn toàn đúng với trình tự, thủ tục pháp luật quy định và không trái đạo đức xã hội.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 340/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân Quận 10 đã tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lưu Diệu P;

1.1.Buộc bị đơn bà Chiếng Thị Băng T giao nhà đất tọa lạc tại địa chỉ số B Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho nguyên đơn ông Lưu Diệu P (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH01036 ngày 06/10/2014 do Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cấp, cập nhật thay đổi, xác nhận chuyển nhượng ông Lưu Diệu P tại Chi nhánh Văn phòng C3 ngày 23/5/2019).

1.2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Lưu Diệu P hỗ trợ bị đơn bà Chiếng Thị Băng T số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để di dời chỗ ở.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Chiếng Thị Băng T, về việc yêu cầu hủy:

- Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 11337 ngày 13/7/2017 tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4) và việc cập nhật thay đổi, xác nhận tặng cho ông Nguyễn Mạnh C tại Chi nhánh Văn phòng C3 ngày 28/7/2017.

- Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở số 002251 ngày 08/3/2019 tại Văn phòng C2 và việc cập nhật thay đổi, xác nhận chuyển nhượng ông Lưu Diệu P tại Chi nhánh Văn phòng C3 ngày 23/5/2019.

Và không chấp nhận yêu cầu công nhận di chúc số 17627 quyển số 09/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 26/9/2016 lập tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4).

Ngoài ra án sơ thẩm còn giải quyết các vấn đề về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, Ngày 13/9/2023, bị đơn bà Chiếng Thị Băng T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà.

Ngày 22/9/2023, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 gửi cho Tòa án nhân dân Quận 10 Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 649/QĐKNPTVKS-DS ngày 20/9/2023 với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiếu quan hệ tranh chấp và đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng nên kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn bà Chiếng Thị Băng T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Nguyên đơn ông Lưu Diệu P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Chiếng Thị Băng T.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Nguyễn Lê N1 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Mạnh C trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Chiếng Thị Băng T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành đúng các quy định của pháp luật; những người tham gia phiên tòa đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo luật định.

- Về nội dung: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần yêu cầu kháng nghị về việc tòa án cấp sơ thẩm đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 về việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiếu quan hệ tranh chấp.

Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe các bên đương sự trình bày ý kiến, sau khi nghe Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm, sau khi nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hình thức:

- Đơn kháng cáo của bị đơn bà Chiếng Thị Băng T làm trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét.

- Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 làm trong thời hạn luật định, hợp lệ nên được chấp nhận để xem xét.

- Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt người tham gia tố tụng nêu trên.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10:

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 về việc đưa trẻ Huỳnh Bảo N3, sinh năm 2010 và trẻ Huỳnh Bảo T5, sinh năm 2012 (đang cư trú tại nhà, đất tranh chấp) vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét việc rút một phần yêu cầu kháng nghị nêu trên là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử đình chỉ một phần yêu cầu kháng nghị này của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 theo quy định tại khoản 3 Điều 284, khoản 3 Điều 289 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với kháng nghị về việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định thiếu quan hệ tranh chấp: Hội đồng xét xử nhận thấy, trong vụ án nêu trên, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà Chiếng Thị Băng T giao trả lại nhà đất tại địa chỉ 2 Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn có yêu cầu phản tố: Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số 11337 ngày 13/7/2017 tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4), hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở số 002251 ngày 08/3/2019 tại Văn phòng C2, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số vào sổ CH01036 do Ủy ban nhân dân Quận A cấp ngày 06/10/2014 và yêu cầu công nhận di chúc số 17627 quyền số 09/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 26/9/2016 lập tại Văn phòng C3.

Căn cứ quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 11 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử xác định các quan hệ tranh chấp trong vụ án trên gồm tranh chấp về đòi nhà, yêu cầu công nhận di chúc và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án bao gồm tranh chấp về đòi nhà và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, là có thiếu sót nên kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 là có căn cứ. Tuy nhiên, việc Tòa án nhân dân Quận 10 xác định thiếu quan hệ tranh chấp trong vụ án trên không làm thay đổi nội dung vụ án, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và thiếu sót này đã được Tòa án cấp phúc thẩm khắc phục nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải hủy án để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm nhưng Tòa án nhân dân Quận 10 cần rút kinh nghiệm.

[2.2] Xét yêu cầu kháng cáo của bị đơn bà Chiếng Thị Băng T:

Hội đồng xét xử nhận thấy: Bà Lê Thị Bé T2 là chủ sở hữu hợp pháp phần nhà, đất tại địa chỉ 2 Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CH 01036 ngày 06/10/2014 của Ủy ban nhân dân Quận A.

Vào ngày 26/9/2016, bà Lê Thị Bé T2 lập di chúc tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4) với nội dung bà T2 để bà Chiếng Thị Băng T và ông Nguyễn Mạnh C thừa kế di sản nêu trên sau khi bà T2 qua đời.

Đến ngày 13/7/2017, bà Lê Thị Bé T2 tiếp tục lập hợp đồng tặng cho toàn bộ nhà đất trên cho ông Nguyễn Mạnh C tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4). Theo quy định tại các Điều 609, 624, 640 và 643 Bộ luật dân sự năm 2015 thì cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế, người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc. Do đó, việc bà T2 ký hợp đồng tặng cho ông C tài sản nêu trên là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Tại thời điểm ký hợp đồng tặng cho, bà Lê Thị Bé T2 và ông Nguyễn Mạnh C đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, trình tự, thủ tục công chứng được thực hiện đúng quy định của Luật công chứng và các văn bản pháp luật có liên quan nên Hội đồng xét xử xác định hợp đồng tặng cho nêu trên là hợp pháp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, phía bị đơn yêu cầu giám định lại chữ ký của bà T2 trong hợp đồng tặng cho nêu trên. Tuy nhiên, bà Chiếng Thị Băng T không xuất trình được tài liệu mới để phục vụ cho việc giám định bổ sung cũng như không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh Kết luận giám định số 4347/KL-KTHS ngày 07/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H là không chính xác, có vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 5 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu giám định lại của bà T.

Vào ngày 28/7/2017, ông Nguyễn Mạnh C được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai cập nhật biến động chủ sử dụng đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CH 01036 ngày 06/10/2014 của Ủy ban nhân dân Quận A là đúng quy định của Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Đến ngày 08/3/2019, ông Nguyễn Mạnh C ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà cho ông Lưu Diệu P tại Văn phòng C2. Xét việc chuyển nhượng trên giữa ông Lưu Diệu P và ông Nguyễn Mạnh C là đúng quy định của pháp luật. Việc Chi nhánh Văn phòng C3 cập nhật tên ông Lưu Diệu P trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên vào ngày 23/5/2019 là phù hợp với quy định của pháp luật.

Do đó, Tòa án nhân dân Quận 10 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Diệu P và bác toàn bộ yêu cầu phản tố của bà Chiếng Thị Băng T là có căn cứ.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu kháng cáo của bà Chiếng Thị Băng T là không có cơ sở để chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 10.

Ý kiến của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[3] Về án phí phúc thẩm: Do Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm nên bà Chiếng Thị Băng T chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào, Điều 102, 284, 289, 296, Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 609; 624; 640; 643 và Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 về việc tòa án cấp sơ thẩm xác định thiếu quan hệ tranh chấp.

2. Đình chỉ xét xử một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Quận 10 về việc tòa án cấp sơ thẩm đưa thiếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.

3. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Chiếng Thị Băng T.

4. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 340/2023/DS-ST ngày 07/9/2023 của Tòa án nhân dân Quận 10:

4.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lưu Diệu P:

Buộc bị đơn bà Chiếng Thị Băng T và những người đang cư trú tại địa chỉ số B Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh giao nhà đất tọa lạc tại địa chỉ số B Bà H, Phường I, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cho nguyên đơn ông Lưu Diệu P (theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ cấp GCN: CH01036 ngày 06/10/2014 do Ủy ban nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh cấp, cập nhật thay đổi, xác nhận chuyển nhượng ông Lưu Diệu P tại Chi nhánh Văn phòng C3 ngày 23/5/2019), trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

4.2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Lưu Diệu P hỗ trợ bị đơn bà Chiếng Thị Băng T số tiền 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng để di dời chỗ ở.

4.3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn bà Chiếng Thị Băng T về việc:

- Hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 11337 ngày 13/7/2017 tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4) và việc cập nhật thay đổi, xác nhận tặng cho ông Nguyễn Mạnh C tại Chi nhánh Văn phòng C3 ngày 28/7/2017.

- Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở số 002251 ngày 08/3/2019 tại Văn phòng C2 và việc cập nhật thay đổi, xác nhận chuyển nhượng ông Lưu Diệu P tại Chi nhánh Văn phòng C3 ngày 23/5/2019.

- Yêu cầu công nhận di chúc số 17627 quyền số 09/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 26/9/2016 lập tại Văn phòng C3 (nay là Văn phòng C4).

5. Về án phí:

5.1. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Hoàn trả cho ông Lưu Diệu P số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0050259 ngày 05/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bà Chiếng Thị Băng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc giao trả nhà là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, thi hành tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

- Bà Chiếng Thị Băng T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với các yêu cầu phản tố không được Tòa án chấp nhận là 900.000 (chín trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 900.000 (chín trăm nghìn) đồng theo các Biên lai thu số AA/2021/0018514 ngày 04/4/2022; AA/2021/0018513 ngày 04/4/2022 và số AA/2021/0018512 ngày 04/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Chiếng Thị Băng T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm đối với các yêu cầu phản tố không được Tòa án chấp nhận.

5.2. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Chiếng Thị Băng T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng đã đóng theo Biên lai thu số AA/2023/0035339 ngày 19/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Chiếng Thị Băng T đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tranh chấp đòi nhà, yêu cầu công nhận di chúc và yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu số 190/2024/DS-PT

Số hiệu:190/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;