TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 69/2024/DS-ST NGÀY 23/09/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT BỊ LẤN CHIẾM
Ngày 23 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2022/TLST - DS, ngày 10 tháng 01 năm 2022 về “Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất bị lấn chiếm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2024/QĐXXST-DS, ngày 21 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị B, sinh năm 1944; địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1948; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Ngọc R, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị T1 (T2), sinh năm 1967; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông vắng mặt, bà T1 vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
- Ông Nguyễn Quốc K, sinh năm 2002; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
- Ông Nguyễn Thạnh A, sinh năm 1996; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1995; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
- Ống Nguyễn Văn P, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Mộng T3, sinh năm 1981; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông P có mặt, bà T3 vắng mặt).
- Ông Nguyễn Thành P1, sinh năm 2004; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Ngọc R1, sinh năm 1967 và bà Đỗ Thị N, sinh năm 1968; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Bà N vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt, ông Nguyễn Ngọc R1 vắng mặt).
- Ông Nguyễn Thanh B1, sinh năm 1979 và bà Phan Thị Kiều T4, sinh năm 1978; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông B1 và bà T4 vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
- Ông Đỗ Minh L1, sinh năm 1967 và bà Đỗ Thị Trúc Q, sinh năm 2004; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Đỗ Minh L1 có mặt, bà Đỗ Thị Trúc Q vắng mặt).
- Ông Đỗ Minh H và bà Nguyễn Thị V; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Đỗ Minh H vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt, bà Nguyễn Thị V vắng mặt).
- Ông Đỗ Kim T5 và bà Nguyễn Thị T6; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Đỗ Kim T5 và bà Nguyễn Thị T6 vắng mặt).
- Ông Đỗ Minh T7 và bà Nguyễn Sơn C; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Đỗ Minh T7 và bà Nguyễn Sơn C vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
- Ông Lý Thanh T8 và bà Đỗ Thị Đ; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Lý Thanh T8 và bà Đỗ Thị Đ vắng mặt).
- Ông Đỗ Minh N1 và bà Hồ Thị T9; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Đỗ Minh N1 và bà Hồ Thị T9 vắng mặt).
- Ông Trần Chí T10 và bà Đỗ Thị N2; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Ông Trần Chí T10 và bà Đỗ Thị N2 vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
- Bà Đỗ Thị H1, sinh năm 1981; địa chỉ: ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
- Ngân hàng N4; địa chỉ liên hệ: Ấp C, Thị trấn H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp: Ông Triệu Xuân C1 - Phó Giám đốc Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện M là người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền ngày 16/8/2024) (Vắng mặt).
4. Người làm chứng:
- Ông Đỗ Văn L2, sinh năm 1954; địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
- Bà Phạm Thị B2; địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
- Ông Lai Văn C2, sinh năm 1962; địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện lập ngày 15/4/2021 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 13/3/2024 cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Phạm Thị B trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế có diện tích là 152,1m2 thuộc thửa số 307, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là của mẹ bà là bà Nguyễn Thị N3 (đã chết). Đến ngày 25/3/1993 phần đất trên được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227820 cho bà Phạm Thị B đứng tên vào ngày 20/3/1993 với diện tích được cấp là 1.710m2, khi làm thủ tục cấp giấy các bên không có ký xác nhận ranh đất vì thời điểm năm 1993 là cấp đại trà, chụp theo không ảnh để cấp nhưng hướng bắc phần đất của bà giáp với kênh xáng Phụng Hiệp. Phần đất tranh chấp gia đình bà sử dụng liên tục đến năm 1994 thì bà T, ông L1 lấn chiếm phần đất này; gia đình bà khiếu nại liên tục từ năm 1994 cho đến nay nhưng chưa được giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án theo biên bản thẩm định của Tòa án xác định diện tích đất tranh chấp là 152,1m2; bà thống nhất số đo theo biên bản xem xét, thẩm định của Tòa án nên bà yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị T, ông Đỗ Minh L1, bà Đỗ Thị Trúc Q phải trả lại cho bà Phạm Thị B phần đất có diện tích là 152,1m2 thuộc thửa đất 307, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Đối với cây trồng trên phần đất tranh chấp gồm: 01 cây sao hoành 0,5m x 07m, hai cây sao hoành 0,4m x 07m, năm cây sao hoành 0,2m x 07m, tám cây đủng đỉnh loại A do bị đơn trồng bà thống nhất, không có ý kiến.
Bà thống nhất với số đo thực tế theo biên bản xem xét, thẩm định ngày 12/12/2022 và ngày 23/02/2024; biên bản định giá ngày 22/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; thống nhất chi phí tố tụng mà Tòa án thực hiện là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng).
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bị đơn bà Nguyễn Thị T trình bày:
Bà không thống nhất với yêu cầu của bà B về yêu cầu buộc bà Nguyễn Thị T, ông Đỗ Minh L1, bà Đỗ Thị Trúc Q phải trả lại cho bà Phạm Thị B phần đất có diện tích là 152,1m2 thuộc thửa đất 307, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng vì nguồn gốc phần đất tranh chấp trước đây rất lâu là đất nhà chung của Nhà thờ, sau đó Cha Tổng Nhà thờ phân chia lại cho mọi người quản lý, sử dụng và cha chồng của bà là ông Đỗ Văn G (đã chết) được sử dụng trước 1945, vào năm 1968 tặng cho lại vợ chồng bà là ông Đỗ Minh T11 và bà Nguyễn Thị T, gia đình bà sử dụng liên tục và đã được Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 306, tờ bản đồ số 8 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227508 cho ông Đỗ Minh T11 đứng tên vào ngày 20/3/1993 với diện tích là 3.600m2. Khi làm thủ tục cấp giấy các bên không có ký xác nhận ranh đất vì thời điểm năm 1993 là cấp đại trà, cấp theo không ảnh nhưng hướng bắc phần đất của bà giáp với kênh xáng Phụng Hiệp. Ranh giới phần đất thuộc thửa 306 của bà và thửa 307 của bà B trước khi tranh chấp được xác định bằng cái mương nên phần đất đang tranh chấp theo đo đạc thực tế là 152,1m² toạ lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng hồi xưa là cái mương có từ thời cha chồng của bà có từ xa xưa, sau đó qua quá trình sử dụng nên bồi đắp lên hiện trạng như bây giờ do đó bà xác định phần đất tranh chấp thuộc thửa 306 của gia đình bà.
Mặt khác, ông Đỗ Minh T11 đã chết vào ngày 17/02/2016, khi chết không để lại di chúc. Lúc sinh thời ông T11 và bà T có 06 người con chung tên: Ông Đỗ Minh L1, ông Đỗ Minh H, ông Đỗ Minh N1, bà Đỗ Thị D, bà Đỗ Thị N2, bà Đỗ Thị H1. Ngoài ra, ông T11 và bà T không có con riêng, con nuôi. Hiện nay Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227508 do Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Đỗ Minh T11 đứng tên vào ngày 20/3/1993 với diện tích là 3.600m² đang thế chấp cho Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện M.
Trong quá trình giải quyết vụ án theo biên bản thẩm định của Tòa án xác định diện tích đất tranh chấp là 152,1m²; Đối với cây trồng trên phần đất tranh chấp gồm 01 cây sao hoành 0,5m x 07m, hai cây sao hoành 0,4m x 07m, năm cây sao hoành 0,2m x 07m, tám cây đủng đỉnh loại A do gia đình bà trồng và sử dụng cho đến nay, không tranh chấp.
Bà thống nhất với số đo thực tế theo biên bản xem xét, thẩm định ngày 12/12/2022 và ngày 23/02/2024; biên bản định giá ngày 22/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; thống nhất chi phí tố tụng mà Tòa án thực hiện là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng).
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc R, bà Nguyễn Thị T1 (T2), ông Nguyễn Quốc K trình bày: Thống nhất với phần trình bày của bà B về nguồn gốc phần đất tranh chấp, quá trình sử dụng đất và ý kiến của bà B. Trong vụ án này không yêu cầu độc lập.
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thạnh A, ông Nguyễn Thành L không có ý kiến hay văn bản trả lời đối với yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị B.
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn P, bà Đỗ Thị N trình bày: Thống nhất với phần trình bày của bà B về nguồn gốc phần đất tranh chấp, quá trình sử dụng đất và ý kiến của bà B. Trong vụ án này không yêu cầu độc lập.
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Ngọc R1, ông Nguyễn Thanh B1, bà Phan Thị Kiều T4 không có ý kiến hay văn bản trả lời đối với yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị B.
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đỗ Minh L1, ông Đỗ Minh H, bà Đỗ Minh T7, bà Nguyễn Sơn C3, bà Đỗ Thị Đ, bà Đỗ Thị N2, ông Trần Chí T10 trình bày: Thống nhất với phần trình bày của bà T về nguồn gốc phần đất tranh chấp, quá trình sử dụng đất và ý kiến của bà T. Trong vụ án này không yêu cầu độc lập.
* Trong quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị Trúc Q, bà Nguyễn Thị V, ông Đỗ Minh N1, bà Hồ Thị T9, bà Đỗ Thị H1, ông Lý Thanh T8 không có ý kiến hay văn bản trả lời đối với yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị B.
* Trong quá trình giải quyết vụ án ông Triệu Xuân C1 là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N4 trình bày: Ngân hàng N4 Chi nhánh huyện M, tỉnh Sóc Trăng có nhận thế chấp quyền sử dụng đất đối với thửa 306, tờ bản đồ số 8 toạ lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227508 do Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Đỗ Minh T11 đứng tên vào năm 1993. Xét thấy phần đất đang tranh chấp giữa bà Phạm Thị B và bà Nguyễn Thị T toạ lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích là 152,1m² có diện tích nhỏ không ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản thế chấp trong trường hợp cần phải xử lý tài sản để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hợp đồng vay đối với quyền sử dụng đất nêu trên. Trong vụ án này không có yêu cầu độc lập.
- Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Xác định đúng quan hệ tranh chấp. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án:
- Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị B về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Phạm Thị B phần đất có diện tích 152,1m² toạ lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng phần đất có số đo và từ cận như sau:
- Hướng đông giáp với phần đất của bà Nguyễn Thị T do ông Đỗ Minh L1 đang quản lý, sử dụng có số đo 53,16 m.
- Hướng tây giáp với phần đất không tranh chấp do bà Phạm Thị B do ông Nguyễn Ngọc R đang quản lý, sử dụng có số đo 22,35m + 30,92m.
- Hướng nam giáp kênh thủy lợi có số đo 3,20m.
- Hướng bắc giáp huyện lộ 87B có số đo 1,31m.
* Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Bà Phạm Thị B phải chịu 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) theo phiếu thu ngày 20/9/2022. Như vậy, bà Phạm Thị B đã nộp xong tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản.
* Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà Phạm Thị B, sinh năm 1944 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên bà Phạm Thị B được miễn án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị T1 (T2), ông Nguyễn Quốc K, bà Đỗ Thị N, ông Nguyễn Thanh B1, bà Phan Thị Kiều T4, ông Đỗ Minh H, ông Đỗ Minh T7, bà Nguyễn Sơn C, ông Trần Chí T10, bà Đỗ Thị N2 vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt. Ông Nguyễn Thạnh A, ông Nguyễn Thành L, ông Nguyễn Ngọc R1, bà Đỗ Thị Trúc Q, bà Nguyễn Thị V, bà Nguyễn Thị Mộng T3, ông Nguyễn Thành P1, ông Đỗ Kim T5, bà Nguyễn Thị T6, ông Lý Thanh T8, bà Đỗ Thị Đ, ông Đỗ Minh N1, bà Hồ Thị T9, bà Đỗ Thị H1, người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng N4; người làm chứng ông Đỗ Văn L2, bà Phạm Thị B2, ông Lai Văn C2 vắng mặt lần thứ hai. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ vào b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với họ.
[2] Về diện tích phần đất tranh chấp: Theo như biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12/12/2022 và ngày 23/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú xác định diện tích phần đất đang tranh chấp tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích là 152,1m². Nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thừa nhận diện tích đất tranh chấp này. Nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử xác định diện tích đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là 152,1m² tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1] Theo như hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhận thấy: Nguồn gốc phần đất của thửa 307, tờ bản đồ 08 do hộ bà Phạm Thị B đứng tên có diện tích 1.710m². Tại đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 29/3/1992 và số mục kê đất đai có ghi đất gốc, nguồn gốc sử dụng là CNQ - CTT (Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất theo hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất), có chữ ký của bà Phạm Thị B và phần đất trên đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227820 ngày 20/3/1993 do bà Phạm Thị B đứng tên với diện tích là 1.710m², thuộc thửa 307, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, diện tích đất của bị đơn là 3.600m² theo đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất ngày 28/3/1993 và số mục kê đất đai có ghi đất gốc, nguồn gốc sử dụng là CNQ - CTT (Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất theo hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất), có chữ ký của ông Đỗ Minh T11 và phần đất trên đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227508 ngày 20/3/1993 do ông Đỗ Minh T11 đứng tên với diện tích là 3.600m², thuộc thửa 306, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Bên cạnh đó, khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, bị đơn trong đó có bà Phạm Thị B, bà Nguyễn Thị T, ông Đỗ Minh T11 (hiện nay đã chết vào năm 2016) đều thống nhất ranh đất, thống nhất với diện tích được cấp, không có tranh chấp trong quá trình cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định diện tích đất sử dụng hợp pháp được công nhận của bà Phạm Thị B là 1.710m² thuộc thửa 307 và ông Đỗ Minh T11 là 3.600m² thuộc thửa 306.
[3.2] Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 12/12/2022 và ngày 23/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú cũng như tại sơ đồ hiện trạng thửa đất của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M thể hiện hiện trạng số đo thực tế như sau:
* Phần diện tích đất nguyên đơn bà Phạm Thị B đang sử dụng thuộc thửa số 307, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227820 ngày 20/3/1993 do bà Phạm Thị B đứng tên gồm:
- Phần thứ nhất (Diện tích nằm trong chi giới quy hoạch giao thông):
+ Hướng đông giáp phần đất tranh chấp có số đo 22,35m + 30,92m.
+ Hướng tây giáp phần đất của ông Nguyễn Văn T12 có số đo 48,87m + 5,35m.
+ Hướng nam giáp kênh thủy lợi có số đo 25,40m.
+ Hướng bắc giáp với lộ đal đường huyện 87B có số đo 28,22m. Diện tích đang sử dụng thực tế là: 1.407,6 m².
- Phần thứ hai (diện tích thuộc đường thủy nội địa):
+ Hướng đông giáp phần đất của bà Phạm Thị B (do ông T10 đang sử dụng) có số đo 9,81m.
+ Hướng tây giáp phần đất của ông Nguyễn Văn T12 có số đo 9,13m.
+ Hướng nam giáp đường H có số đo 28,20m.
+ Hướng bắc giáp với kênh xáng Phụng Hiệp có số đo 27,90m. Diện tích đang sử dụng thực tế là: 266,2m².
- Ngoài ra, tại biên bản xem xét thẩm định và biên bản xác minh ngày 16/8/2024 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M cho biết: Đối với thửa số 307, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227820 ngày 20/3/1993 do bà Phạm Thị B đứng tên. Tại thời điểm cấp giấy ngày 20/3/1993 đối với diện tích được cấp là 1.710m2 trong đó bao gồm diện tích nằm trong chi giới quy hoạch giao thông, diện tích thuộc đường thủy nội địa, diện tích ảnh hưởng đường huyện 87B vì hướng bắc phần đất giáp kênh xáng Phụng Hiệp. Sau khi được cấp giấy tuyến lộ 87B đi ngang qua phần đất này cụ thể diện tích ảnh hưởng đường huyện 87B là 181,4m2.
* Phần diện tích đất bà Nguyễn Thị T đang sử dụng thuộc thửa 306, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số B227508 ngày 20/3/1993 do ông Đỗ Minh T11 đứng tên:
- Phần thứ nhất (Diện tích nằm trong chi giới quy hoạch giao thông):
+ Hướng đông giáp phần đất mua thêm (2,8m) có số đo 52,65m.
+ Hướng tây giáp phần đất đang tranh chấp có số đo 53,16m.
+ Hướng nam giáp kênh thủy lợi có số đo 28,70m.
+ Hướng bắc giáp với lộ đal đường huyện 87B có số đo 32,16m.
Diện tích đang sử dụng thực tế là: 1.609,9m².
- Phần thứ hai (diện tích thuộc đường thủy nội địa):
+ Hướng đông giáp phần đất mua thêm (2,8m) có số đo 11,60m.
+ Hướng tây giáp phần đất của bà Phạm Thị B (do ông T10 đang quản lý, sử dụng) có số đo 9,81m.
+ Hướng nam giáp đường H có số đo 33,77m.
+ Hướng bắc giáp với phần kè thêm ra kênh xáng Phụng Hiệp có số đo 34,50m.
Diện tích đang sử dụng thực tế là: 364,5m².
- Ngoài ra, tại biên bản xem xét thẩm định và biên bản xác minh ngày 16/8/2024 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M cho biết: Đối với thửa số 306, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B227508 ngày 20/3/1993 do ông Đỗ Minh T11 đứng tên. Tại thời điểm cấp giấy ngày 20/3/1993 đối với diện tích được cấp là 3.600 m² trong đó bao gồm diện tích nằm trong chi giới quy hoạch giao thông, diện tích thuộc đường thủy nội địa, diện tích ảnh hưởng đường huyện 87B vì hướng bắc phần đất giáp kênh xáng Phụng Hiệp. Sau khi được cấp giấy tuyến lộ 87B đi ngang qua phần đất này cụ thể diện tích ảnh hưởng đường huyện 87B là 213,1m².
[3.3] Qua xem xét từ cận, diện tích thực tế phần đất nguyên đơn và bị đơn đang sử dụng bao gồm diện tích nằm trong chi giới quy hoạch giao thông, diện tích thuộc đường thủy nội địa cộng với diện tích ảnh hưởng đường huyện 87B do Nhà nước đang quản lý (quản lý sau khi cấp giấy năm 1993) so với diện tích trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp vào năm 1993 cũng như tại biên bản xác minh ngày 16/8/2024 tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M và Công văn số 536/UBND - NC ngày 10/5/2024 của Ủy ban nhân dân huyện M xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 306 và thửa 307, tờ bản đồ 08 tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp cho bà Phạm Thị B, ông Đỗ Minh T11 vào ngày 20/3/1993 có hướng bắc giáp kênh xáng Phụng Hiệp nên đủ cơ sở xác định: Diện tích đất thực tế của đất thửa số 307 (1.855,2m2) với diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Phạm Thị B (1.710m2) thì dư 145,2m2 và diện tích đất thực tế thuộc thửa 306 (2.187,5m2) của ông Đỗ Minh T11(chồng bà T) so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (3.600m2) là thiếu 1.412,5m2.
[3.4] Bên cạnh đó, tại biên bản xác minh ngày 01/8/2024 đại diện Ủy ban nhân dân xã H; Ban N5 cũng như Ủy ban nhân dân xã H xác định “Đối với phần đất đang tranh chấp giữa bà Phạm Thị B và bà Nguyễn Thị T có diện tích là 152,1m2 có nguồn gốc trước đây là đất nhà chung của nhà thờ; sau đó cha tổng nhà thờ Trà Lồng phân chia đất nhà chung cho mọi người quản lý, sử dụng. Phần đất tranh chấp do gia đình ông Đỗ Minh T11 quản lý, sử dụng từ khi phân chia trước năm 1975 cho đến năm 1993 thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà B, bà T đều thừa nhận gia đình bà T sử dụng phần đất liên tục từ trước năm 1975 đã trên 30 năm, công khai, liên tục, gia đình bà B không có sử dụng phần đất này nên ông T11 trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu theo Điều 187 Bộ luật Dân sự năm 2015 là có căn cứ.
[3.5] Ngoài ra, tại Công văn số 889/UBND-VP ngày 17/7/2024 của Ủy ban nhân dân huyện M xác định: Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 307, tờ bản đồ số 8, tọa lạc ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cho bà Phạm Thị B ngày 20/3/1993 là đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy; Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 306, tờ bản đồ số 8, tọa lạc ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cho ông Đỗ Minh T11 đứng tên vào năm 1993 là đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy. Đồng thời, theo hiện trạng thẩm định tại chỗ trên phần đất tranh chấp bị đơn có trồng có 01 cây sao hoành 0,5m x 07m; 02 cây sao hoành 0,4m x 07m; 05 cây sao hoành 0,2m x 07m; tám cây đủng đỉnh loại A, nhưng nguyên đơn không có ngăn cản, ý kiến gì.
[4] Từ nhận định tại mục [3.1], [3.2], [3.3], [3.4] và [3.5] Hội đồng xét xử đủ căn cứ để xác định bà Nguyễn Thị T, ông Đỗ Minh L1 và bà Đỗ Thị Trúc Q không có hành vi lấn chiếm theo Điều 12 Luật Đất đai năm 2013 nên việc bà Phạm Thị B yêu cầu Tòa án buộc bà Nguyễn Thị T phải trả lại cho bà Phạm Thị B phần đất có diện tích là 152,1m² thuộc thửa đất 307, tờ bản đồ số 08, tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là không có căn cứ chấp nhận.
[5] Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Nguyên đơn phải chịu chi phí thẩm định, định giá tài sản theo quy định tại Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà Phạm Thị B, sinh năm 1944 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7] Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 203 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị B về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị T phải trả cho bà Phạm Thị B phần đất có diện tích 152,1m² tọa lạc tại ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có số đo và từ cận như sau:
- Hướng đông giáp với phần đất của bà Nguyễn Thị T do ông Đỗ Minh L1 đang quản lý, sử dụng có số đo 53,16 m.
- Hướng tây giáp với phần đất không tranh chấp do bà Phạm Thị B do ông Nguyễn Ngọc R đang quản lý, sử dụng có số đo 22,35m + 30,92m.
- Hướng nam giáp kênh thủy lợi có số đo 3,20m.
- Hướng bắc giáp huyện lộ 87B có số đo 1,31m.
2. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Bà Phạm Thị B phải chịu 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) theo phiếu thu ngày 20/9/2022. Như vậy, bà Phạm Thị B đã nộp xong tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị B phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà Phạm Thị B, sinh năm 1944 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên bà Phạm Thị B được miễn án phí theo quy định pháp luật.
4. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất bị lấn chiếm số 69/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 69/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 23/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về