TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 38/2024/DS- ST NGÀY 22/07/2024 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT BỊ LẤN CHIẾM
Trong các ngày 16 tháng 7 năm 2024 và ngày 22 tháng 7 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 103/2022/TLST - DS, ngày 17 tháng 11 năm 2022 về “Tranh chấp tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất bị lấn chiếm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2024/QĐXXST-DS, ngày 18 tháng 6 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1953; địa chỉ: Số A, ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của ông Bùi Văn C: Bà Bùi Thị Tố Q, sinh năm 1989; địa chỉ: Số A, ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 07/11/2022) (Có mặt).
2. Bị đơn: Ông Lê Phú B, sinh năm 1953; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của ông Lê Phú B: Ông Lê Thanh H, sinh năm 1979; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 01/12/2022) (Vắng mặt khi tuyên án).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Bùi Thị M, sinh năm 1952; ông Lê Phú Q1, sinh năm 1984; bà Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1995; cùng địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của bà Bùi Thị M, ông Lê Phú Q1, bà Nguyễn Thị Hồng N: Ông Lê Thanh H, sinh năm 1979; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày 01/4/2024) (Vắng mặt khi tuyên án).
3.2. Bà Lê Thúy H1, sinh năm 1977; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (đã chết vào ngày 19/6/2024).
Người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thúy H1: Bà Bùi Thị M, sinh năm 1952; ông Lê Phú B, sinh năm 1953; cùng địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.3. Bà Nguyễn Thị Thanh H2, sinh năm 1963; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.4. Bà Bùi Thị Tố T, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
3.5. Bà Bùi Thị Tố Q, sinh năm 1989; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (Có mặt).
3.6. Bà Bùi Thị Tố N1, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện lập ngày 11/11/2022 ông Bùi văn C1 cũng như các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Bùi Thị Tố Q trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp theo đo đạc thực tế có diện tích là 20,78m2 thuộc thửa số 155, tờ bản đồ 06 tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc là của ông Bùi Văn R và bà Trần Thị N2 (đã chết vào năm 1973). Đến ngày 27/10/2002 phần đất trên được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W258379 do hộ ông Bùi Văn C đứng tên với diện tích được cấp là 233m2, khi làm thủ tục cấp giấy các bên đều có ký xác nhận ranh đất. Phần đất tranh chấp gia đình ông C sử dụng liên tục, có cất chuồng heo, sau đó ông C cho ông Lê Phú B mượn sử dụng và chiếm luôn từ năm 2022 cho đến nay.
Theo đơn khởi kiện ông Bùi Văn C yêu cầu Tòa án: Buộc ông Lê Phú B tháo dỡ và di dời toàn bộ công trình đã xây dựng trên phần đất lấn chiếm có diện tích là 10m2 thuộc thửa đất 155, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Buộc ông Lê Phú B trả lại cho ông Bùi Văn C phần đất có diện tích là 10 m2 thuộc thửa đất 155, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án theo biên bản thẩm định của Tòa án xác định diện tích đất tranh chấp là 20,78m2 nên ông C thống nhất số đo theo biên bản xem xét, thẩm định của Tòa án nên yêu cầu buộc ông Lê Phú B phải trả lại cho ông Bùi Văn C phần đất có diện tích là 20,78m2 thuộc thửa đất 155, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng; Buộc ông Lê Phú B tháo dỡ và di dời một phần của căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m², giá trị còn lại 70%, có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh trên phần đất lấn chiếm, không đồng ý trả giá trị tài sản vì ông Lê Phú B đã xây dựng trái phép.
Bà Q thống nhất với số đo thực tế theo biên bản xem xét, thẩm định ngày 29/02/2024, biên bản thỏa thuận giá tài sản đang tranh chấp ngày 04/4/2024 của Toà án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng; thống nhất chi phí tố tụng mà Tòa án thực hiện là 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng).
* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị M, ông Lê Phú Q1, bà Nguyễn Thị Hồng N là ông Lê Thanh H trình bày:
Ông không thống nhất với yêu cầu của ông C vì nguồn gốc phần đất tranh chấp là của ông Lê Phú P (ông cổ của ông), sau khi ông P chết thì ba ông là ông Lê Phú B đang ở chung với ông P nên tiếp tục thửa hướng và sử dụng trước năm 1975 cho đến nay và hiện nay được cấp giấy chứng nhận thuộc thửa 566, tờ bản đồ số 6, diện tích 938m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BQ671021 do Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Sóc Trăng cấp cho ông Lê Phú B và bà Bùi Thị M đứng tên vào ngày 24/3/2014.
Qua quá trình xem xét, thẩm định tại chỗ xác định trên phần đất tranh chấp có một phần của căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m², giá trị còn lại 70%, có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh. Đối với công trình này từ trước năm 1975, cha mẹ ông cất căn nhà lá để ở. Khoảng năm 1992 - 1993, gia đình cất chuồng heo để nuôi heo trên phần đất tranh chấp; sau đó khoảng năm 2000 gia đình ông mới đập bỏ chuồng heo, xây dựng nhà vệ sinh, cất nhà tường và bồn nước bê tông để trữ nước (hiện trạng xây như hiện nay). Đến năm 2022 thì xây mới nhà trên hiện trạng củ và trên phần đất tranh chấp có một phần căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m², có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh như hiện nay và trong quá trình xây dựng không có ngăn cản gì. Sau khi xây dựng xong, một thời gian sau mới tranh chấp.
Ông thống nhất với số đo thực tế theo biên bản xem xét, thẩm định ngày 29/02/2024, biên bản thỏa thuận giá tài sản đang tranh chấp ngày 04/4/2024 của Toà án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng.
* Trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Thanh H2, bà Bùi Thị Tố N1, Bùi Thị Tố T bày: Bà H2, bà N1 và bà T thống nhất với phần trình bày của ông Bùi Văn C về nguồn gốc phần đất tranh chấp, quá trình sử dụng đất và ý kiến của ông Bùi Văn C. Trong vụ án này bà H2, bà N1 và bà T không yêu cầu độc lập.
* Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lê Thúy H1 (đã chết vào ngày 19/6/2024) có người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng là ông Lê Phú B, bà Bùi Thị M trình bày: Thống nhất với phần trình bày của ông Lê Phú B về nguồn gốc phần đất tranh chấp, quá trình sử dụng đất và ý kiến của ông Lê Phú B. Trong vụ án này không yêu cầu độc lập.
- Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Xác định đúng quan hệ tranh chấp. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án:
- Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Không chấp nhận yêu cầu của ông Bùi Văn C về việc yêu cầu ông Lê Phú B p trả cho ông Bùi Văn C phần đất có diện tích 20,78m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng phần đất có số đo và tử cận như sau:
- Hướng đông giáp với phần đất không tranh chấp do ông Bùi Văn C đang quản lý, sử dụng có số đo 5,17m.
- Hướng tây giáp với phần đất không tranh chấp do ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng (thửa 566) có số đo 5,32m.
- Hướng nam giáp phần đất không tranh chấp do ông Bùi Văn C đang quản lý, sử dụng (thửa 155) có số đo 3,76m.
- Hướng bắc giáp với phần đất không tranh chấp do ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng (thửa 566) có số đo 4,18m.
* Không chấp nhận yêu cầu của ông Bùi Văn C về việc yêu cầu ông Lê Phú B tháo dỡ và di dời một phần của căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m², giá trị còn lại 70%; có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh trên phần đất có diện tích 20,78m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
* Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Ông Bùi Văn C phải chịu 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) theo phiếu thu ngày 13/02/2023 với số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) và phiếu thu ngày 29/01/2024 với số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) của Tòa án nhân dân huyện M. Như vậy, ông Bùi Văn C đã nộp xong tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản.
* Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bùi Văn C phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng ông Bùi Văn C, sinh năm 1953 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên ông Bùi Văn C được miễn án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tai phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Bùi Thị Tố N1, bà Bùi Thị Tố T, bà Nguyễn Thị Thanh H2; người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thúy H1 là ông Lê Phú B, bà Bùi Thị M vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Theo như quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2024/QĐXXST - DS ngày 18/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Tòa án đưa ông Lê Thanh H, sinh năm 1979 là người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thúy H1 theo giấy ủy quyền ngày 01/4/2024. Tuy nhiên, ngày 19/6/2024 bà Lê Thúy H1 đã chết. Căn cứ vào điểm đ khoản 3 Điều 140 Bộ luật dân sự năm 2015 ông Lê Thanh H chấm dứt là người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thúy H1.
[3] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Lê Thúy H1 (chết vào ngày 19/6/2024). Theo biên bản xác minh ngày 10/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú xác định lúc sinh thời, bà H1 không có chồng, con và có cha mẹ ruột là ông Lê Phú B, bà Bùi Thị M. Do đó, tại phiên tòa hôm nay Tòa án xác định bà Bùi Thị M, ông Lê Phú B là người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà Lê Thúy H1 theo Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự.
[4] Về diện tích phần đất tranh chấp: Theo như biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 29/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện M xác định diện tích phần đất đang tranh chấp tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng có diện tích là 20,78m². Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn; người đại diện theo ủy quyền bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thửa nhận diện tích đất tranh chấp này. Nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử xác định diện tích đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là 20,78m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
[5] Xét yêu cầu của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy rằng: Theo như hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhận thấy: Nguồn gốc phần đất của thửa 155, tờ bản đồ 06 do hộ ông Bùi Văn C đứng tên có diện tích 233m² tại biên bản xác minh ranh giới, mốc giới, nguồn gốc thửa đất ngày 28/5/2002 có ghi “Trước năm 1975 đất gốc của ông Bùi Văn C sử dụng và canh tác do cán bộ đo đạc và chính quyền địa phương không rõ nên đã lập bộ sai tên, DT của tôi đúng là Bùi Văn C nay xin điều chỉnh tên diện tích lại để Đ/C hợp lệ đất SD ổn định không T/c”; đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất dùng cho khu vực nông thôn ngày 25/5/2002 ghi nguồn gốc sử dụng đất là đất gốc (có chữ ký của ông Bùi Văn C) và phần đất trên đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W258379 ngày 25/10/2002 do hộ ông Bùi Văn C đứng tên với diện tích là 233m², thuộc thửa 155, tờ bản đồ 6 tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, diện tích của bị đơn là 928m² theo Đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 14/01/2014 ghi “Nguồn gốc sử dụng: đất sử dụng năm 1975 đến nay” năm 2014 đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ671021 ngày 24/3/2014 do ông Lê Phú B và bà Bùi Thị M đứng tên có diện tích 938m² thuộc thửa 566, tờ bản đồ 6 tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Bên cạnh đó, khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, bị đơn các bên trong đó có ông Bùi Văn C, ông Lê Phú B đều ký giáp ranh, thống nhất ranh đất, thống nhất với diện tích được cấp, không có tranh chấp trong quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định diện tích đất sử dụng hợp pháp được công nhận của ông Bùi Văn C là 233m² thuộc thửa 155 và ông Lê Phú B, bà Bùi Thị M là 938m² thuộc thửa 566.
Tại biên bản thẩm định tại chỗ ngày 29/02/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú cũng như tại sơ đồ hiện trạng thửa đất của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh S thể hiện hiện trạng số đo thực tế như sau:
- Phần diện tích đất nguyên đơn ông Bùi Văn C đang sử dụng thuộc thửa số 155, tờ bản đồ 6 tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W258379 ngày 25/10/2002 do hộ ông Bùi Văn C đứng tên:
+ Hướng đông giáp phần đất của bà Nguyễn Thị Mỹ C2 có số đo 10,61m + 5,51m + 13,16m.
+ Hướng tây giáp phần đất của ông Lê Phú B đang quản lý thực tế (phần không tranh chấp) có số đo 5,81m + 15,75m + 4,43m và giáp với phần đất đang tranh chấp có số đo 5,17m.
+ Hướng nam giáp lộ Xóm L có số đo 9,26m.
+ Hướng bắc giáp phần đất đang tranh chấp có số đo 3,76m và phần đất của ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng có số đo 3,12m (giáp với thửa 566 của ông Lê Phú B).
Diện tích đang sử dụng thực tế là: 243,65m².
- Phần diện tích đất ông Lê Phú B đang sử dụng thuộc thửa 566, tờ bản đồ 6 tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng đã được Ủy ban nhân dân huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BQ671021 ngày 24/3/2014 do ông Lê Phú B, bà Bùi Thị M đứng tên:
+ Hướng đông giáp phần đất đang tranh chấp có số đo 5,32m + phần đất của bà Nguyễn Thị Mỹ C2 có số đo 83,27m + 23,52m.
+ Hướng tây giáp phần đất của ông Pham Văn T1 đang quản lý, sử dụng có số do 0,56m + 3,57m + 1,70m + 2,74m + 20,15m + 83,03m.
+ Hướng nam giáp phần đất ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng (thửa 156) có số do 5,76m + phần đất đang tranh chấp có số do 4,18m + phần đất thuộc thửa 155 của ông Bùi Văn C có số do 3,12m.
+ Hướng bắc giáp phần đất của ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng (Thửa có số do 7,1m + thửa 153 có số do 1,42m + 1,33m.
Diện tích đang sử dụng thực tế là: 952,0m2.
Qua xem xét tứ cận, diện tích phần đất nguyên đơn và bị đơn đang sử dụng thực tế so với diện tích trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thấy rằng diện tích đất đang sử dụng thực tế của đất thửa số 155 với diện tích được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Bùi Văn C thì dư 10,65 m2 và diện tích đất thuộc thửa của ông Lê Phú B so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dư 14m2.
Bên cạnh đó, tại biên bản xác minh ngày 12/6/2024 tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện M xác định “Đối với phần đất đang tranh chấp giữa ông Bùi Văn C và ông Lê Phú B có diện tích là 20,78m2. Căn cứ vào vị trí đo đạc của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh S xác định phần đất đang tranh chấp có diện tích 20,78m2 thuộc thửa 566 tờ bản đồ 06”. Mặt khác, tại biên bản xác minh ngày 23/5/2024 đối với bà Nguyễn Thị Mỹ C2 cho rằng nguồn gốc phần đất đang tranh chấp giữa ông Bùi Văn C và ông Lê Phú B có nguồn gốc là của ông Lê Phú P. Sau đó, ông Lê Phú P cho ông Lê Phú B phần đất trên, quản lý sử dụng sau năm 1975, phần đất trên ông Lê Phú B quản lý, sử dụng liên tục đến nay; Phần đất ông Bùi Văn C đang quản lý, sử dụng thuộc thửa 155 tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là có nguồn gốc từ cha mẹ ông C để lại. Phần đất trên ông C và gia đình quản lý, sử dụng ranh giới vẫn giữ nguyên hiện trạng, không có thay đổi so với trước đây và phù hợp với biên bản xác minh ngày 15/5/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú đối với ban N3, người làm chứng là bà Nguyễn Thị Ú xác định ông B sử dụng phần đất tranh chấp từ thời ông Lê Phú P trước năm 1975 đã trên 30 năm.
Ngoài ra, tại công văn số 889/UBND-VP ngày 17/7/2024 của Ủy ban nhân dân huyện M xác định: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 155, tờ bản đồ số 6, tọa lạc ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cho hộ ông Bùi Văn C là đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy; Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 566, tờ bản đồ số 6, tọa lạc ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng cho ông Lê Phú B và bà Bùi Thị M là đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm cấp giấy. Đồng thời, theo hiện trạng thẩm định tại chỗ trên phần đất tranh chấp có một phần của căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m², giá trị còn lại 70%, có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh vào năm 2022 nhưng nguyên đơn không có làm đơn ngăn cản trong quá trình xây dựng.
Từ nhận định nêu trên đã đủ căn cứ để xác định ông Lê Phú B không có hành vi lấn chiếm theo Điều 12 Luật đất đai năm 2013 nên việc ông Bùi Văn C yêu cầu Toà án buộc ông Lê Phú B p trả lại cho ông Bùi Văn C phần đất có diện tích là 20,78m² thuộc thửa đất 155, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng và buộc ông Lê Phú B tháo dỡ và di dời một phần của căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m², giá trị còn lại 70%; có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh trên phần đất có diện tích 20,78m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng là không có căn cứ chấp nhận.
[6] Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Nguyên đơn phải chịu chi phí thẩm định, định giá tài sản theo quy định tại Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166 Bộ luật tố tụng dân sự.
[7] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nhưng ông Bùi Văn C, sinh năm 1953 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 203 Luật đất đai năm 2013; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu của ông Bùi Văn C về việc yêu cầu ông Lê Phú B p trả cho ông Bùi Văn C phần đất có diện tích 20,78m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng phần đất có số đo và tứ cận như sau:
- Hướng đóng giáp với phần đất không tranh chấp do ông Bùi Văn C đang quản lý, sử dụng có số đo 5,17m.
- Hướng tây giáp với phần đất không tranh chấp do ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng (thửa 566) có số đo 5,32m.
- Hướng nam giáp phần đất không tranh chấp do ông Bùi Văn C đang quản lý, sử dụng (thửa 155) có số đo 3,76m.
- Hướng bắc giáp với phần đất không tranh chấp do ông Lê Phú B đang quản lý, sử dụng (thửa 566) có số đo 4,18m.
2. Không chấp nhận yêu cầu của ông Bùi Văn C về việc yêu cầu ông Lê Phú B tháo dỡ và di dời một phần của căn nhà cấp 4 có kết cấu tường xây 10, ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic và mái lợp tole, diện tích 15,78m²; Nhà vệ sinh, tường 10cm ốp gạch cao 1,5m, nền lát gạch Ceramic, diện tích (2mx2,5m) = 5m2, giá trị còn lại 70%; có 01 lavabo và 01 bồn vệ sinh trên phần đất có diện tích 20,78m² tọa lạc tại ấp X, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng.
3. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Ông Bùi Văn C phải chịu 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 8.500.000 đồng (Tám triệu năm trăm nghìn đồng) theo phiếu thu ngày 13/02/2023 với số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) và phiếu thu ngày 29/01/2024 với số tiền 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú. Như vậy, ông Bùi Văn C đã nộp xong tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Bùi Văn C phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng ông Bùi Văn C, sinh năm 1953 là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí phí nên ông Bùi Văn C được miễn án phí theo quy định pháp luật.
5. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.
6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất bị lấn chiếm số 38/2024/DS-ST
| Số hiệu: | 38/2024/DS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Ngày ban hành: | 22/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về