TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 92/2024/DS-ST NGÀY 20/09/2024 VỀ TRANH CHẤP CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA HỘ GIA ĐÌNH VÀ TRANH CHẤP ĐÒI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Vào các ngày 13 và 20 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 132/2022/TLST-DS ngày 31 tháng 10 năm 2022 về "Tranh chấp chia tài sản chung của hộ gia đình và đòi quyền sử dụng đất" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2024/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 73/2024/QĐST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:
- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972.
- Chị Hồ Thị T, sinh năm 1990.
- Anh Hồ Quang K, sinh năm 1996. Cùng địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
- Chị Hồ Thị D, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
Chị Hồ Thị T1, sinh năm 1991. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
2. Bị đơn:
- Ông Hồ Văn M, sinh năm 1970. Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Nguyễn Thị M1, sinh năm 1963. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị M1: Anh Lê Trọng Q, sinh năm 1989, địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang (Văn bản ủy quyền lập ngày 29/3/2023 tại Văn phòng C2).
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Địa chỉ: Khu phố D, thị trấn M, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Người đại diện theo pháp luật: Ông Đoàn Văn P - Chức vụ: Chi cục trưởng. Người đại diện theo ủy quyền của ông Đoàn Văn P: Bà Trương Thị Kim Q1 - Chức vụ: Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước (Văn bản ủy quyền ngày 29/9/2022).
- Bà Hồ Thị L, sinh năm 1965. Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
(Chị Hồ Thị D có đơn xin vắng mặt, các đương sự còn lại có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Tại đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 12/9/2022, quá trình giải quyết vụ án, các nguyên đơn trình bày:
Các nguyên đơn là vợ, con của ông Hồ Văn M. Gia đình ông Hồ Văn M có tạo lập được tài sản chung là quyền sử dụng đất thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, diện tích 6.681m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M số vào sổ 00512/QSDĐ/500/QĐUB ngày 10/12/1997.
Do cá nhân ông Hồ Văn M có nghĩa vụ phải trả cho bà Nguyễn Thị M1 số tiền 710.905.300 đồng theo bản án số 03/2022/DS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước. Nên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước đã ban hành Thông báo số 128/TB-CCTHADS ngày 25/8/2022 để cho các thành viên trong hộ ông Hồ Văn M được quyền khởi kiện chia tài sản chung để xác định quyền sử dụng của cá nhân ông M trong tổng diện tích 6.681m2 của thửa đất số 177 để đảm bảo thi hành án cho bà Nguyễn Thị M1 nên các nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Bà Nguyễn Thị H, chị Hồ Thị T, anh Hồ Quang K, chị Hồ Thị D và chị Hồ Thị T1 yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của hộ là quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 177, tờ bản đồ số PMC1, diện tích 6.681m2, đất tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00512QSDĐ/500/QĐUB ngày 10/12/1997 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M. Yêu cầu Tòa án chia quyền sử dụng đất thành 06 phần, cụ thể:
- Chia cho bà Nguyễn Thị H có quyền sử dụng một phần diện tích là 1.113m2 trong tổng diện tích 6.681m2 thuộc thửa đất số 177.
- Chia cho chị Hồ Thị T có quyền sử dụng một phần diện tích là 1.113m2 trong tổng diện tích 6.681m2 thuộc thửa đất số 177.
- Chia cho anh Hồ Quang K có quyền sử dụng một phần diện tích là 1.113m2 trong tổng diện tích 6.681m2 thuộc thửa đất số 177.
- Chia cho chị Hồ Thị D có quyền sử dụng một phần diện tích là 1.113m2 trong tổng diện tích 6.681m2 thuộc thửa đất số 177.
- Chia cho chị Hồ Thị T1 có quyền sử dụng một phần diện tích là 1.113m2 trong tổng diện tích 6.681m2 thuộc thửa đất số 177.
Tại Tờ tự khai, bị đơn ông Hồ Văn M trình bày:
Hộ gia đình ông có tạo lập được tài sản chung là quyền sử dụng đất thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, diện tích 6.681m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M số vào sổ 00512/QSDĐ/500/QĐUB ngày 10/12/1997. Ông đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.
* Tại tờ khai, anh Lê Trọng Q là đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị M1 trình bày:
Tại Bản án sơ thẩm số 03/2022/DS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước đã tuyên xử buộc ông Hồ Văn M có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị M1 số tiền là 710.905.300 đồng. Thực hiện nghĩa vụ giao trả khi án có hiệu lực pháp luật.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bà M1 đã có đơn yêu cầu thi hành án. Quá trình thi hành án xác định hộ ông Hồ Văn M có quyền sử dụng thửa đất số 177, tờ bản đồ số PMC1, diện tích 6.681m2, đất tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00512QSDĐ/500/QĐUB ngày 10/12/1997 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M.
Nay đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Nguyễn Thị M1 không đồng ý vì: Thời điểm hộ ông Hồ Văn M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1997, các nguyên đơn còn rất nhỏ tuổi. Đến nay, các con của ông M cũng không có đóng góp công sức gì vào việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản này. Tài sản này là tài sản chung tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa ông M và bà H.
Do ông M có nghĩa vụ thi hành án cho bà M1 nên các nguyên đơn khởi kiện nhằm mục đích tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của ông M. Đề nghị Tòa án xem xét không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của các nguyên đơn.
Tại Công văn số 259/CV-THADS ngày 17/11/2022, Chấp hành viên bà Trương Thị Kim Q1 trình bày:
Quá trình thi hành án, tại thời điểm ngày 28/02/2022 Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước đã thụ lý hồ sơ thi hành án của ông Hồ Văn M theo các Quyết định thi hành án số 41, 213/QĐ-CCTHADS với nghĩa vụ buộc ông Hồ Văn M trả cho bà Nguyễn Thị M1 số tiền là 710.905.300 đồng + lãi suất phát sinh do chậm thi hành án. Ngoài ra, ông Hồ Văn M có nghĩa vụ nộp 32.436.312 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Căn cứ theo Điều 74 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên đã có thông báo yêu cầu về việc xác định phần quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số 177.
* Tại Đơn khởi kiện độc lập, Tờ tự khai ngày 29/9/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hồ Thị L trình bày:
Bà và ông Hồ Văn M có quan hệ họ hàng, gọi ông M là chú ruột. Nguyên trước đây do cha của bà là ông Hồ Văn C, sinh năm 1946 (là liệt sĩ) mất sớm nên khi đó ông nội là ông Hồ Văn T2, sinh năm 1917 (đã chết năm 2000) có chia cho các anh, em, con, cháu các phần đất tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang. Bà được ông nội cho các thửa đất số 176 (2.082m2), 296 (1.555m2), 336 (845m2), 316 (1.604m2) và thửa 1390 (2.373m2). Các thửa đất này đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00323QSDĐ/1219/QĐUB do UBND huyện T cấp cho do chồng của bà là ông Trần Văn T3, sinh năm 1963 đại diện hộ đứng tên ngày 27/11/1998.
Ngoài ra, thời điểm đó ông nội còn cho bà một phần đất khoảng 01 công đất, nhưng chưa kê khai để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi ông Hồ Văn M làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 177, diện tích 6.681m2 không có mời bà đến để xác định ranh mà đăng ký luôn phần đất của ông nội cho có diện tích thực đo theo kết quả đo đạc là 920,2m2, có tứ cận: Phía Bắc giáp thửa 175 của Hồ Văn M; Phía Nam giáp thửa 196 của Hồ Văn K1, Phía Đông giáp thửa 177 của Hồ Văn M và Phía Tây giáp Võ Văn B và Hà Quốc M2.
Thực tế từ khi ông nội cho đất vào năm 1997 cho đến nay, bà đã trực tiếp canh tác sử dụng để trồng khoai từ đó đến nay, không ai tranh chấp gì, ông Hồ Văn M và các thành viên trong gia đình đều biết, thừa nhận việc này.
Bà L khởi kiện độc lập, yêu cầu ông Hồ Văn M và các thành viên trong hộ gia đình phải trả lại phần đất có diện tích 920,2m2 là một phần đất thuộc thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, diện tích thực đo là 6.529m2, tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang cho bà Hồ Thị L đứng tên sử dụng.
* Tại phiên tòa hôm nay:
- Các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Chia quyền sử dụng đất thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, diện tích trên giấy 6.681m2 (thực đo 6.529m2), giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M số vào sổ 00512/QSDĐ/500/QĐUB ngày 10/12/1997 thành 06 phần cho: Hồ Văn M, Nguyễn Thị H, Hồ Thị T, Hồ Thị T1, Hồ Thị D và Hồ Quang K và đồng ý với yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L, đồng ý trả phần diện tích đất thực đo 920,2m2 cho bà Hồ Thị L, yêu cầu chia phần đất có tứ cận phía Nam tiếp giáp phần đất của Hồ Văn K2 và Hồ Văn T4, phía Bắc tiếp giáp với phần đất còn lại của thửa đất số 177, phía Đông tiếp giáp phần đất Hồ Văn K2, phía Tây tiếp giáp phần đất hoàn trả cho bà Hồ Thị L.
- Bị đơn ông Hồ Văn M đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L, thống nhất vị trí đất được nhận theo yêu cầu của các nguyên đơn.
- Anh Lê Trọng Q đề nghị Tòa án xem xét không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn và yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L. Đề nghị xác định quyền sử dụng đất thửa đất số 177 là tài sản chung của ông Hồ Văn M và bà Nguyễn Thị H.
- Bà Trương Thị Kim Q1 đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật thì Chi cục Thi hành án sẽ tiến hành các thủ tục tiếp theo để đảm bảo việc thi hành bản án số 03/2022/DS-ST ngày 21/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước.
- Bà L giữ nguyên yêu cầu độc lập, không tranh luận gì.
* Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phước tham gia phiên tòa:
- Về tố tụng: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán, Thư ký chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xác định quyền sử dụng thửa đất số 177 thuộc quyền sử dụng của ông Hồ Văn M, bà Nguyễn Thị H và anh Hồ Quang K, nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H và anh K, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, chị T1 và chị D.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L, buộc ông M, bà H và anh K trả lại cho bà L phần đất có diện tích 920,2m2.
Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử buộc các đương sự phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, phần tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện, các nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của hộ; phần đất có phát sinh tranh chấp tọa lạc tại ấp P, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang, đồng thời, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hồ Thị L có yêu cầu độc lập yêu cầu hộ ông M trả lại quyền sử dụng đất nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là "Tranh chấp chia tài sản chung của hộ gia đình và đòi quyền sử dụng đất" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại Khoản 9 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Hồ Thị D vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị D.
[3]. Về nội dung:
[3.1]. Về các thành viên trong hộ gia đình có quyền sử dụng đất:
Các nguyên đơn trình bày thành viên hộ ông Hồ Văn M thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm có 06 người: Hồ Văn M, Nguyễn Thị H, Hồ Thị T, Hồ Thị T1, Hồ Thị D và Hồ Quang K nên các thành viên trong hộ đều có quyền sử dụng đất của hộ gia đình.
Theo nội dung Công văn số 3605/CAH-QLHC ngày 09/12/2022 của Công an huyện T (Biên bản số 77) xác định được: Thời điểm tháng 12/1997 hộ ông Hồ Văn M gồm các nhân khẩu: Hồ Văn M, Nguyễn Thị H, Hồ Thị T, Hồ Thị T1, Hồ Thị D và Hồ Quang K. Tuy nhiên, từ đó đến nay có nhiều lần thay đổi nhân khẩu như chị Hồ Thị T chuyển khẩu đến huyện T, tỉnh Long An đến ngày 27/5/2020 mới nhập lại hộ khẩu. Chị Hồ Thị T1 chuyển khẩu đến ấp T, xã T vào ngày 20/5/2013. Chị Hồ Thị D tách khẩu cùng xã ngày 13/3/2019.
Tại phiên tòa, các nguyên đơn thừa nhận thửa đất số 177 từ trước đến nay do ông M và bà H trực tiếp canh tác, sử dụng, anh K sống cùng ông M và bà H đến nay, ngoài thời gian đi làm thuê cũng có phụ giúp canh tác, sử dụng đất. Còn các chị T, T1, D không canh tác, sử dụng gì thửa đất. Hiện nay, chị D và chị T1 cũng đã tách hộ, có gia đình, cuộc sống riêng. Chị T đến ngày 27/5/2020 mới nhập lại hộ khẩu nhưng cũng đi làm công nhân không canh tác, sử dụng đất.
Tại Đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 02/8/1997 của ông Hồ Văn M (Biên bản số 71) thể hiện người kê khai là ông Hồ Văn M và vợ là bà Nguyễn Thị H, nguồn gốc đất là đất khai hoang. Như vậy, tại thời điểm đăng ký kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các con của ông M và bà H đều còn nhỏ tuổi, không có quyền sử dụng đất. Quá trình sử dụng đất cho đến nay, chỉ ông M, bà H và anh K có đóng góp công sức, trực tiếp canh tác và sử dụng đất.
Căn cứ vào quy định tại Khoản 29 Điều 3, Điều 5 Luật Đất đai, Mục 4 Phần III Giải đáp 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017, Điều 212 Bộ luật Dân sự xác định được thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất gồm có: ông Hồ Văn M, bà Nguyễn Thị H và anh Hồ Quang K. Do đó, yêu cầu khởi kiện của chị T, chị T1 và chị D không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2]. Đối với yêu cầu độc lập:
Ngày 29/9/2023, bà Hồ Thị L có đơn yêu cầu độc lập yêu cầu hộ ông Hồ Văn M phải trả lại phần đất là 920,2m2 là phần đất thuộc thửa số 177. Ngày 05/01/2024, Tòa án huyện T đã có Công văn số 21/CV-TAH đề nghị Ủy ban nhân dân xã P tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai giữa bà L và hộ ông M. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh ngày 26/7/2024 (Biên bản số 147), Ủy ban xã P cung cấp thông tin bà L sử dụng phần đất này từ trước đến nay, không ai tranh chấp gì, ông M cũng thống nhất nội dung như trên, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông M đã cấp chồng lấn lên phần đất của bà L nên xã không tiến hành hòa giải được. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 201 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải thụ lý, giải quyết yêu cầu của bà L trong cùng vụ án này là phù hợp.
Tại phiên tòa, ông Hồ Văn M và các nguyên đơn đều thừa nhận phần diện tích 920,2m2 do bà L sử dụng, canh tác trồng khoai mỡ từ đó đến nay có nguồn gốc từ ông bà để lại như bà L đã trình bày, giữa phần đất bà L đang sử dụng và phần đất còn lại của thửa đất số 177 đang trồng khóm có đường nước là đường ranh của hai phần đất. Quá trình đăng ký kê khai cấp giấy đất, ông M đã kê khai luôn phần đất của bà L. Tại Biên bản xác minh ngày 26/7/2024 (Biên bản số 148), ông Dương Văn C1 là Trưởng ấp P cũng xác định bà L sử dụng ổn định phần đất này từ xưa đến nay, không ai tranh chấp.
Như vậy, yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L về việc yêu cầu hộ ông Hồ Văn M phải trả lại phần đất là 920,2m2 là có căn cứ được chấp nhận, phù hợp với quy định tại các Điều 155, 158, 163, 164 và Điều 166 Bộ luật Dân sự. Phần đất 920,2 m2 bà Hồ Thị L yêu cầu có tứ cận:
+ Đông giáp phần diện tích còn lại của Thửa đất số 177, dài 50,71m.
+ Tây giáp Thửa đất số 376 của ông Võ Văn B, dài 49,99m.
+ Nam giáp Thửa đất số 214 của ông Hà Quốc M2 và Thửa đất số 196 của ông Hồ Văn K2, dài 18,03m.
+ Bắc giáp Thửa đất số 175 của hộ ông Hồ Văn M, dài 18,76m.
[3.3]. Về phân chia tài sản chung của hộ:
Như đã nhận định ở phần trên, thành viên hộ gia đình có quyền sử dụng đất là ông M, bà H và anh K. Sau khi trừ đi phần diện tích đất trả cho bà Hồ Thị L: 6.529m2 - 920,2m2 = 5.608,8m2, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 167, 170, 179, 203 Luật Đất đai, Điều 219 Bộ luật Dân sự, xác định ông M, bà H và anh K mỗi người được sử dụng 1.869,6m2 (có sơ đồ kèm theo).
Tại phiên tòa, anh K yêu cầu chia cho ông M phần đất có tứ cận phía Nam tiếp giáp phần đất của Hồ Văn K2 và Hồ Văn T4, phía Bắc tiếp giáp với phần đất còn lại của thửa đất số 177, phía Đông tiếp giáp phần đất Hồ Văn K2, phía Tây tiếp giáp phần đất hoàn trả cho bà Hồ Thị L. Bà H và ông M cũng thống nhất vị trí đất như yêu cầu của anh K. Hội đồng xét xử xác định:
[3.1]. Chia cho ông Hồ Văn M phần diện tích đất 1.869,6m2 của Thửa đất số 177, có tứ cận:
+ Đông giáp Thửa đất số 198 của ông Hồ Văn K2, dài 18,40m.
+ Tây giáp phần đất của bà Hồ Thị L, dài 16,63m.
+ Nam giáp Thửa đất số 214 của ông Hà Quốc M2 dài 40,59m và giáp Thửa đất số 196 của ông Hồ Văn K2, dài 72m.
+ Bắc giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho bà Nguyễn Thị H.
[3.2]. Chia cho bà Nguyễn Thị H phần diện tích đất 1.869,6m2 của Thửa đất số 177, có tứ cận:
+ Đông giáp Thửa đất số 198 của ông Hồ Văn K2, dài 19,06m.
+ Tây giáp phần đất của bà Hồ Thị L, dài 17,18m.
+ Nam giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho ông Hồ Văn M, dài 108,74m.
+ Bắc giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho anh Hồ Quang K, dài 104,76m.
[3.3]. Chia cho anh Hồ Quang K phần diện tích đất 1.869,6m2 của Thửa đất số 177, có tứ cận:
+ Đông giáp Thửa đất số 198 của ông Hồ Văn K2, dài 20,72m.
+ Tây giáp phần đất của bà Hồ Thị L, dài 16,90m.
+ Nam giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho bà Nguyễn Thị H, dài 104,76m.
+ Bắc giáp Thửa đất số 175 của hộ ông Hồ Văn M, dài 100,26m.
[3.4]. Tại phiên tòa, các đương sự trình bày giá đất của thửa đất theo thị trường tại địa phương giao động từ 50.000.000 đồng - 60.000.000 đồng/1.000m2 tức 50.000 đồng - 60.000 đồng/m2. Tuy nhiên, theo giá Hội đồng định giá xác định, giá đất là 80.000 đồng/m2. Như vậy, giá trị tài sản ông M, bà H và anh K được nhận mỗi người là: 80.000 đồng x 1.869,6m2 = 149.568.000 đồng.
[4]. Về chi phí tố tụng: Tại phiên tòa, bà H, anh K, chị T, chị T1 thống nhất tự nguyện chịu 12.000.000 đồng là chi phí tố tụng không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về án phí:
Căn cứ quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 1 Điều 26, Khoản 2, Khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Chị T, chị T1 và chị D mỗi người phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận. H1 lại số tiền tạm ứng án phí còn thừa lại cho chị T, chị T1 và chị D.
Ông M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản được chia với số tiền án phí là 7.478.400 đồng.
Bà H và anh K mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản được chia với số tiền án phí là 7.478.400 đồng. Bà H và anh K mỗi người đã nộp tạm ứng án phí với số tiền là 1.250.000 đồng, vì vậy mỗi người phải nộp thêm 6.228.400 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Ông M, bà H và anh K còn phải chịu thêm 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu độc lập của bà L được chấp nhận.
Hoàn trả lại số tiền tạm ứng án phí cho bà L do yêu cầu độc lập được chấp nhận.
[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[7]. Xét ý kiến đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các Điều 155, 158, 163, 164, 166, 170, 179, 203, 212 và Điều 219 Bộ luật Dân sự;
- Khoản 9 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điều 39, các Điều 147, 201, 228, 266, 267, 271, 272 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Khoản 29 Điều 3, Điều 5, các Điều 166, 169, 170 và Điều 203 Luật Đất đai;
- Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 1 Điều 26, Khoản 2, Khoản 7 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Mục 4 Phần III Giải đáp 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị H và anh Hồ Quang K về việc chia tài sản chung của hộ.
1.1. Chia cho ông Hồ Văn M phần diện tích đất 1.869,6m2 của thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00323QSDĐ/1219/QĐUB do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M ngày 27/11/1998, có tứ cận:
+ Đông giáp Thửa đất số 198 của ông Hồ Văn K2, dài 18,40m.
+ Tây giáp phần đất của bà Hồ Thị L, dài 16,63m.
+ Nam giáp Thửa đất số 214 của ông Hà Quốc M2 dài 40,59m và giáp Thửa đất số 196 của ông Hồ Văn K2, dài 72m.
+ Bắc giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho bà Nguyễn Thị H.
(Có sơ đồ kèm theo) 1.2. Chia cho bà Nguyễn Thị H phần diện tích đất 1.869,6m2 của thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00323QSDĐ/1219/QĐUB do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M ngày 27/11/1998, có tứ cận:
+ Đông giáp Thửa đất số 198 của ông Hồ Văn K2, dài 19,06m.
+ Tây giáp phần đất của bà Hồ Thị L, dài 17,18m.
+ Nam giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho ông Hồ Văn M, dài 108,74m.
+ Bắc giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho anh Hồ Quang K, dài 104,76m.
(Có sơ đồ kèm theo) 1.3. Chia cho anh Hồ Quang K phần diện tích đất 1.869,6m2 của thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00323QSDĐ/1219/QĐUB do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M ngày 27/11/1998, có tứ cận:
+ Đông giáp Thửa đất số 198 của ông Hồ Văn K2, dài 20,72m.
+ Tây giáp phần đất của bà Hồ Thị L, dài 16,90m.
+ Nam giáp phần diện tích 1.869,6m2 chia cho bà Nguyễn Thị H, dài 104,76m.
+ Bắc giáp Thửa đất số 175 của hộ ông Hồ Văn M, dài 100,26m.
(Có sơ đồ kèm theo) 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn chị Hồ Thị T, chị Hồ Thị T1 và chị Hồ Thị D về việc chia tài sản chung của hộ.
3. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L.
Buộc ông Hồ Văn M, bà Nguyễn Thị H và anh Hồ Quang K phải trả lại cho bà Hồ Thị L phần đất có diện tích 920,2m2 là một phần đất của thửa đất số 177, tờ bản đồ PMC1, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 00323QSDĐ/1219/QĐUB do Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho hộ ông Hồ Văn M ngày 27/11/1998, có tứ cận:
+ Đông giáp phần diện tích còn lại của Thửa đất số 177, dài 50,71m.
+ Tây giáp Thửa đất số 376 của ông Võ Văn B, dài 49,99m.
+ Nam giáp Thửa đất số 214 của ông Hà Quốc M2 và Thửa đất số 196 của ông Hồ Văn K2, dài 18,03m.
+ Bắc giáp Thửa đất số 175 của hộ ông Hồ Văn M, dài 18,76m.
(Có sơ đồ kèm theo) 4. Về án phí:
4.1. Chị Hồ Thị T, chị Hồ Thị T1 và chị Hồ Thị D mỗi người phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mỗi người đã nộp là 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) theo các biên lai thu số 0003250, 0003251, 0003253 ngày 24/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. H1 lại cho chị T, chị T1 và chị D mỗi người 950.000 đồng (Chín trăm năm mươi nghìn đồng).
4.2. Ông Hồ Văn M phải chịu 7.478.400 đồng (Bảy triệu bốn trăm bảy mươi tám nghìn bốn trăm đồng) 4.3. Bà Nguyễn Thị H và anh Hồ Quang K mỗi người phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.478.400 đồng (Bảy triệu bốn trăm bảy mươi tám nghìn bốn trăm đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mỗi người đã nộp là 1.250.000 đồng (Một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) theo các biên lai thu số 0003252, 0003254 ngày 24/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Bà H và anh K mỗi người phải nộp thêm 6.228.400 đồng (Sáu triệu hai trăm hai mươi tám nghìn bốn trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
4.4. Ông Hồ Văn M, bà Nguyễn Thị H và anh Hồ Quang K phải chịu thêm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu độc lập của bà Hồ Thị L được chấp nhận.
4.5. Hoàn trả lại cho bà Hồ Thị L số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0012003 ngày 29/9/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự: H, K, T, M, M1 (do anh Q là đại diện), L, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án; Chị D và chị T1 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ Tòa án tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
(Án tuyên vào lúc 08 giờ 45 phút, có mặt bà H, anh K, chị T, ông M, bà L; Đại diện Chi cục Thi hành án huyện Tân Phước, chị T1, chị D có đơn đề nghị vắng mặt; Bà M1, anh Q vắng mặt không có lý do)
Bản án về tranh chấp chia tài sản chung của hộ gia đình và tranh chấp đòi quyền sử dụng đất số 92/2024/DS-ST
Số hiệu: | 92/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về