TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 31/2023/DS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Trong ngày 23 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai và tuyên án vào ngày 29 tháng 9 năm 2023 đối với vụ án dân sự thụ lý số: 12/2023/TLST - DS, ngày 20 tháng 02 năm 2023 về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2023/QĐST - DS, ngày 07 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Hải V, sinh năm 1988 (Có mặt khi xét xử vắng mặt khi tuyên án).
Nơi cư trú: Số E đường số G, khu phố A, thành phố T, thành phố H. Địa chỉ liên hệ: 344 H, phường D, quận T, thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Hải V là Công ty luật Trách nhiệm hữu hạn Mai T.
Địa chỉ liên hệ: 344 H, phường D, quận T, thành phố H.
Người đại diện theo pháp luật là ông Mai Thanh T1, sinh năm 1978 (Có mặt khi xét xử vắng mặt khi tuyên án) Người nhận ủy quyền lại là ông Nguyễn Hoàng Phương T2, sinh năm 1997 Có mặt khi xét xử vắng mặt khi tuyên án)
Địa chỉ thường trú: Thôn L, xã Đ, huyện M, tỉnh Q
Địa chỉ liên hệ: A05.03 Tòa nhà republic plaza, 18e C, Phường D, Quận T, Thành phố H
Bị đơn: 1. Ông Phạm Đình T3, sinh năm 1953 (Có mặt) Địa chỉ: Khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B;
2. Bà Nguyễn Thị Q, Sinh năm 1955 (Có mặt) Địa chỉ: Khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Cháu Phạm Đình T4, sinh ngày 24/11/2018 Người giám hộ cho cháu Phạm Đình T4: Bà Trần Thị Hải V, sinh năm 1988 Nơi cư trú: Số E đường số G, khu phố A, thành phố T, thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung cùng bản lời khai tại Tòa án nhân dân thị xã B, cùng các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn bà Trần Thị Hải V là ông Mai Thanh T1 và ông Nguyên Hoàng Phương T2 trình bày Ngày 23 tháng 10 năm 2017, bà Trần Thị Hải V và ông Phạm Đình N chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thị xã B, tỉnh B, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 93/2017. Qúa trình chung sống bà V và ông Phạm Đình N có một con chung tên Phạm Đình T4, sinh ngày 24 tháng 11 năm 2018. Trong thời kỳ hôn nhân, ông N chồng bà V đã được bố mẹ chồng là ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Quy t cho một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất ngày 16 tháng 11 năm 2018 cho ông Phạm Đình N. Đến ngày 19/7/2019 do thay đổi nhu cầu sử dụng đất nên vợ chồng bà V, ông N đã xin chuyển mục đích sử dụng 150m2 đất ở thuộc thửa đất 626, tờ bản đồ số 14 (từ đất trồng cây lâu năm thành đất ở đô thị). Đến ngày 30/08/2019, ông N chồng bà V bị tai nạn giao thông chết đột ngột (qua đời) không để lại di chúc. Hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật của ông N gồm: Ông Phạm Đình T3 (cha ruột); Bà Nguyễn Thị Q (mẹ ruột); Bà Trần Thị Hải V (vợ) và Cháu Phạm Đình T4 (con ruột). Tuy nhiên, sau khi chồng bà V qua đời, bố mẹ chồng bà là ông T3 và bà Q muốn đòi lại toàn bộ di sản mà chồng bà V để lại một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, đất trồng cây lâu năm, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất ngày 16 tháng 11 năm 2018 cho ông Phạm Đình N. Nay bà V yêu cầu Toà án giải quyết các vấn đề sau:
1. Bà V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật, chia ¼ di sản do ông Phạm Đình N để lại gồm: Một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B. Bà V yêu cầu được thừa kế ¼ di sản của ông Phạm Đình N để lại và bà V có nguyện vọng nhận thừa kế bằng hiện vật.
2. Bà V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật đối với cháu Phạm Đình T4 hiện chưa đủ 18 tuổi vì vậy đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 để giao cho bà V quản lý phần di sản mà cháu được thừa kế từ ông Phạm Đình N để lại.
Tổng giá trị di sản mà bà V và cháu T4 được thừa kế và đề nghị giao cho bà V quản lý là ½ mảnh đất có diện tích 1598,7m2, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: Khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
3. Đề nghị Q1 tòa án tuyên cho bà V nhận thừa kế bằng hiện vật, trong đó bao gồm phần diện tích 150m2 đất ở đô thị, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, diện tích 1598,7m2, tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B, để bà V có chỗ ở và tài chính ổn định chăm sóc con nhỏ.
Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q trình bày: Ông T3 và bà Q xác định ông T3 và bà Q là cha và mẹ đẻ của ông Phạm Đình N, ngày 30/08/2019 ông N chết do bị tai nạn giao thông, khi chết ông N có vợ tên bà Trần Thị Hải V và con ruột là cháu Phạm Đình T4, sinh năm 2019. Do đột ngột qua đời nên ông N không để lại di chúc. Hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật của ông N gồm: Ông Phạm Đình T3 (cha ruột); Bà Nguyễn Thị Q (mẹ ruột); Bà Trần Thị Hải V (vợ) và Cháu Phạm Đình T4 (con ruột). Nay bà Trần Thị Hải V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật thì ông T3 đồng ý, ông T3, bà Q có nguyện vọng được chia bằng hiện vật quyền sử dụng đất. Ông T3 và bà Q có nguyện vọng đứng tên đồng giám hộ trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cháu Phạm Đình T4.
Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định Tại phiên tòa các đương sự thỏa thuận với nhau đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bà V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật, bà V yêu cầu Tòa án giải quyết chia ¼ di sản thừa kế do ông Phạm Đình N để lại gồm: Một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B. Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp chia di sản thừa kế” theo quy định tại các Điều 649 và Điều 650 của Bộ luật dân sự, căn cứ quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh B.
[2] Về nội dung vụ án: Ngày 23 tháng 10 năm 2017, bà Trần Thị Hải V và ông Phạm Đình N đã đăng ký kết hôn tại UBND phường A, thị xã B, tỉnh B theo Giấy đăng ký kết hôn số 93/2017. Giữa bà V và ông Phạm Đình N có 01 (một) con chung là cháu Phạm Đình T4 sinh ngày 24 tháng 11 năm 2018. Trong thời kỳ hôn nhân, chồng bà V đã được bố mẹ chồng là ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Quy t cho thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, diện tích 1598,7m2, mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm, tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B và đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ngày 16 tháng 11 năm 2018 cho chồng bà V là ông Phạm Đình N. Ngày 19/07/2019, do thay đổi nhu cầu sử dụng đất nên vợ chồng bà V đã quyết định chuyển mục đích sử dụng 150m2 đất nằm trong thửa đất 626, tờ bản đồ số 14 từ đất trồng cây lâu năm thành đất ở đô thị. Đến ngày 30/08/2019, chồng bà V không may bị tai nạn giao thông nên đột ngột qua đòi không để lại di chúc. Hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật của chồng bà gồm có: Ông Phạm Đình T3 (cha ruột); Bà Nguyễn Thị Q (mẹ ruột); Bà Trần Thị Hải V (vợ) và Cháu Phạm Đình T4 (con ruột). Tuy nhiên, sau khi chồng bà V chết, bố mẹ chồng bà V là ông T3 và bà Q muốn đòi lại toàn bộ di sản mà chồng bà V để lại thửa đất thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, diện tích 1598,7m2, tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B. Nay bà V yêu cầu Toà án giải quyết các vấn đề sau:
1. Bà Trần Thị Hải V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật, chia ¼ di sản thừa kế do ông Phạm Đình N là chồng bà V chết để lại gồm: Một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
2. Bà V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật đối với cháu Phạm Đình T4 hiện chưa đủ 18 tuổi vì vậy đề nghị Q1 tòa án căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật Dân sự năm 2015 để giao cho bà V quản lý phần di sản mà cháu được thừa kế từ ông Phạm Đình N. Tổng giá trị di sản mà bà V và con trai bà được thừa kế và đề nghị giao cho bà V quản lý là ½ thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, diện tích 1598,7m2, tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CP 362117 do Sở tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 16 tháng 11 năm 2018 cho ông Phạm Đinh N1.
3. Đề nghị Q1 tòa án tuyên cho bà V nhận thừa kế băng hiện vật, trong đó bao gồm phần diện tích 150m2 đã được chuyển đổi mục đích sử dụng sang đất ở đô thị, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, diện tích 1598,7m2, tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B để bà V có chỗ ở và tài chính ổn định chăm sóc con nhỏ.
[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn: Bà Trần Thị Hải V yêu cầu Tòa án giải quyết chia thừa kế theo pháp luật, chia ¼ di sản thừa kế do ông Phạm Đình N là chồng bà V chết để lại gồm: Một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
Thứ nhất: Hàng thừa kế thứ nhất của ông Phạm Đình N gồm: Ông Phạm Đình T3 (cha ruột); Bà Nguyễn Thị Q (mẹ ruột); Bà Trần Thị Hải V (vợ) và Cháu Phạm Đình T4 (con ruột).
Thứ hai: Di sản thừa kế gồm: Một mảnh đất có diện tích 1598,7m2, thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
Tại phiên tòa các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án phù hợp với quy định của pháp luật các Điều 649, Điều 650 và Điều 651 của Bộ luật dân sự; nội dung các bên thỏa thuận như sau:
[3.1] Bà Trần Thị Hải V được chia phần đất có diện tích 336,7m2, trong đó có 45m2 đất ở đô thị, 291,7m2 đất trồng cây lâu năm và (102,5m2 đất thuộc hành lang lộ giới), thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
[3.2] Cháu Phạm Đình T4 được chia 489,5m2 trong đó có 105m2 đất ở đô thị, 384,5m2 đất trồng cây lâu năm và (166,4m2 + 156,6m2 đất thuộc hành lang lộ giới) thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
[3.3] Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q được chia diện tích 722,5m2, đất trồng cây lâu năm và (215,6m2 đất thuộc hành lang lộ giới), thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
Theo sơ đồ mảnh trích đo địa chính ngày 26/9/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã B.
[3.4] Bà Trần Thị Hải V là người giám hộ cho cháu Phạm Đình T4 theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật dân sự.
[3.5] Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q là đồng giám sát người giám hộ của cháu Phạm Đình T4, theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật dân sự.
[4] Giá trị tài sản tranh chấp theo biên bản định giá tài sản ngày 03/8/2023 của Hội đồng định giá Tòa án nhân dân thị xã B xác định: Đất trồng cây lâu năm 150.000 đồng/1m2; đất ở nông thôn 400.000 đồng/1m2.
[5] Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 5.000.000đ (Năm triệu đồng), bà Trần Thị Hải V tự nguyện chịu, được trừ vào tiền tạm ứng đã nộp theo phiếu thu ngày 13/4/2023 của Tòa án nhân dân thị xã B.
[6] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, các Điều 12 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q là người cao tuổi và cháu Phạm Đình T4 là trẻ em nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bà Trần Thị Hải V chịu số tiền 3.750.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 203 của Luật đất đai; các Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 136 và Điều 51 của Bộ luật dân sự; Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Hải V về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế”. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự:
1.1 Bà Trần Thị Hải V được chia phần đất có diện tích 336,7m2, trong đó có 45m2 đất ở đô thị, 291,7m2 đất trồng cây lâu năm và (102,5m2 đất thuộc hành lang lộ giới), thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
1.2 Cháu Phạm Đình T4 được chia 489,5m2 trong đó có 105m2 đất ở đô thị, 384,5m2 đất trồng cây lâu năm và (166,4m2 + 156,6m2 đất thuộc hành lang lộ giới) thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
1.3 Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q được chia diện tích 722,5m2, đất trồng cây lâu năm và (215,6m2 đất thuộc hành lang lộ giới), thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 14, tọa lạc tại địa chỉ: khu phố B, phường A, thị xã B, tỉnh B.
Theo sơ đồ mảnh trích đo địa chính ngày 26/9/2023 của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thị xã B.
2. Bà Trần Thị Hải V là người giám hộ cho cháu Phạm Đình T4
3. Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q là đồng giám sát người giám hộ của cháu Phạm Đình T4.
4. Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản 5.000.000đ (Năm triệu đồng), bà Trần Thị Hải V chịu, được trừ vào tiền tạm ứng đã nộp theo phiếu thu ngày 13/4/2023 của Tòa án nhân dân thị xã B.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, các Điều 12 và Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về thu, miễn, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Ông Phạm Đình T3 và bà Nguyễn Thị Q là người cao tuổi và cháu Phạm Đình T4 là trẻ em nên được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bà Trần Thị Hải V chịu 2.988.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 3.750.000 đồng tạm ứng đã nộp theo biên lai thu số 0002554 ngày 14 tháng 02 năm 2023 của Chi Cục Thi hành án dân sự thị xã B, trả lại cho bà Trần Thị Hải V 762.000đ (Bảy trăm sáu mươi hai nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí còn dư.
6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ này bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 31/2023/DS-ST về tranh chấp chia di sản thừa kế
Số hiệu: | 31/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về