TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 208/2023/DS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TRANH CHẤP CHIA DI SẢN THỪA KẾ
Ngày 29 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố X, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 142/2021/TLST-DS ngày 20 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp chia di sản thừa kế” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 394/2023/QĐXXST-DS ngày 19 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 367/2023/QĐST-DS ngày 09 tháng 8 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1955;
Hộ khẩu thường trú: Số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A;
Tạm trú: Phòng 75, tầng G, chung cư B, phường M, thành phố L, tỉnh A.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông L là: Ông Trần Văn N, luật sư Văn phòng luật sư Trần Văn N, thuộc Đoàn luật sư tỉnh A;
Địa chỉ: số E đường N, phường Đ, thành phố L, tỉnh A.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1957;
Cư trú: số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A.
Người đại diện theo ủy quyền của ông S là: Ông Nguyễn Lưu Q, sinh năm 1984;
Cư trú: số I khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982;
Cư trú: Phòng 75, tầng G, chung cư B, phường M, thành phố L, tỉnh A;
Nơi ở hiện nay: Cổng chào S, nhà trọ T4, phòng số 9, thành phố P, tỉnh Kiên Giang.
- Bà Võ Thị P, sinh năm 1959;
Cư trú: số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A.
Người đại diện theo ủy quyền của bà P là: Ông Nguyễn Lưu Q, sinh năm 1984; Cư trú: Số I khóm Đ, phường M, thành phố L, tỉnh A.
- Chị Nguyễn Thị Kim L1, sinh năm 1996;
Cùng cư trú: số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A.
- Anh Thiều Quang V, sinh năm 1994.
- Cháu Nguyễn Quang V1, sinh năm 2016;
- Cháu Nguyễn Uyên T, sinh năm 2019;
Người đại diện theo pháp luật của cháu V1 và cháu T là: chị Nguyễn Thị Kim L1 (mẹ ruột của cháu V1, cháu T).
- Chị Nguyễn Thị Kim T1, sinh năm 1982;
- Cháu Nguyễn Thành T2, sinh năm 2017;
- Cháu Nguyễn Thành Đ, sinh năm 2020;
Người đại diện theo pháp luật của cháu T2 và cháu Đ là: chị Nguyễn Thị Kim T1 (mẹ ruột của cháu T2, cháu Đ).
- Cháu Lung Vũ T3, sinh năm 2004;
Cùng cư trú: số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A.
- Ông Trần Minh B;
- Bà Trần Thị H;
Cùng cư trú: nhà sát vách nhà số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A (chợ Đ1, phường Đ).
Tại phiên tòa, các ông bà Nguyễn Văn L, Trần Văn N, Nguyễn Văn S, Võ Thị P, Nguyễn Lưu Q đều có mặt; các ông bà anh chị Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị Kim L1, Thiều Quang V, Nguyễn Thị Kim T1, Lung Vũ T3, Trần Minh B, Trần Thị H đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình làm việc, hòa giải, giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn L trình bày:
Cha mẹ của ông Nguyễn Văn L là cụ Nguyễn Văn B1 chết trước năm 1975 (không rõ ngày, tháng, năm) và cụ Huỳnh Thị P1 chết năm 1989. Sinh thời cụ B1 và cụ P1 có 03 người con là: ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Kim Q1. Bà Q1 có chung sống với ông Nguyễn Hồng D như vợ chồng trong thời gian ngắn nhưng không có đăng ký kết hôn, đến lúc bà Q1 có bầu Nguyễn Văn c thì ông D và bà Q1 chia tay nhau, anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982. Hiện ông D đã có gia đình khác. Từ khi anh C ra đời năm 1982 thì bà Q1 về sống chung với cụ P1, nuôi anh C cho đến năm 2001 thì bà Q1 chết, ngoài ra bà Q1 không chung sống, kết hôn với ai.
Sinh thời cụ B1 và cụ P1 có tạo lập được tài sản là thửa đất diện tích 41,8m2, trên đất có căn nhà khung cây dầu, nền xi măng, mái tol tại địa chỉ số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L. Cả gia đình ông L, ông S từ khi sinh ra đều chung sống tại đây. Đến năm 1980 - 1990, cụ P1 mất thì ông S mới đứng tên xin phép sửa chữa nhà nhưng chính quyền địa phương chỉ cho phép sửa bằng vật liệu nhẹ. Sau khi cụ P1 mất thì căn nhà giao cho ông S quản lý, còn ông L thì ra sống riêng bên ngoài, nhà đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu. Năm 1991 thì Nhà nước có lập mẫu kê khai đăng ký nhà, đất. Khi ông S làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông L có khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền. Ông L xác định căn nhà hiện nay ông S đang ở là được ông S xây dựng lại, quá trình sử dụng có sửa chữa gì thêm nữa hay không thì ông L không biết.
Về diện tích thửa đất theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2 lập thì ông L thống nhất là phần đất, nhà được đo đạc theo hướng dẫn của ông S có diện tích 36,9m2 tại các điểm 16, 40, 41, 32; trong đó có 0,9m2 tại các điểm 16, 39, 47 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Minh B và bà Trần Thị H; ông L không tranh chấp phần 0,9m2 này, nên diện tích đất ông L tranh chấp chỉ còn lại 36m2 tại các điểm 39, 40, 41, 32.
Ông L xác định giá trị thửa đất ông L yêu cầu chia di sản thừa kế là 900.000.000 đồng, còn nhà là của ông S thì ông L không yêu cầu chia nữa. Vì vậy: ông L yêu cầu phân chia di sản thừa kế là thửa đất tại địa chỉ số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L theo quy định pháp luật cho 03 anh em là L, S và Q1 (phần của Q1 do con trai là C nhận), mỗi người bằng 1/3 suất thừa kế theo pháp luật. Ông L đồng ý giao nhà đất cho ông S quản lý, sử dụng. Ông S có nghĩa vụ giao lại cho ông L và anh C mỗi người 300.000.000 đồng.
Bị đơn ông Nguyễn Văn S đo ông Nguyễn Lưu Q đại diện theo ủy quyền trình bày:
Cha mẹ của ông S là cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P1 đã chết như ông L trình bày. Cụ B1 và cụ P1 có các con và hàng thừa kế của cụ B1, cụ P1 như ông L trình bày. Nội dung về bà Q1 và anh C cũng như ông L trình bày.
Về tài sản nhà, đất tại địa chỉ: số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A có nguồn gốc do cụ B1 và cụ P1 để lại. Nhưng trước khi chết cụ B1 và cụ P1 đã cho vợ chồng ông S, và vợ chồng ông về ở sinh sống trên nhà, đất này từ trước khi mẹ chết cho đến nay. Việc cha mẹ cho không có giấy tờ, nhưng anh em cùng biết. Vì vậy, ông S đồng ý xác định thửa đất tại địa chỉ nêu trên là di sản của cụ B1 và cụ P1 để lại nên sẽ đem chia, nhưng ông S chỉ đồng ý giao cho ông L 300.000.000 đồng, còn chỗ anh C thì do trước đây khi ông S và bà Q1 còn sống chung một nhà, thì ông S đã đưa cho bà Q1 02 chỉ vàng để bà Q1 mua nhà ra ở riêng.
Còn căn nhà tại địa chỉ nêu trên là tài sản riêng của vợ chồng ông S. Do cha mẹ đã cho ông nên đến năm 1990 thì ông đứng ra sửa nhà có báo chính quyền địa phương cấp phép. Năm 1990, ông sửa nhà là tháo bỏ hoàn toàn nhà cũ và xây dựng lại mới, có thêm căn gác.
Về giá trị thửa đất thì ông S yêu cầu xác định theo giá của Hội đồng định giá do Tòa án thành lập. Về diện tích thửa đất theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh L2 lập thì tôi thống nhất là phần đất, nhà được đo đạc theo hướng dẫn của ông S có diện tích 36,9m2 tại các điểm 16, 40, 41, 32; trong đó có 0,9m2 tại các điểm 16, 39, 47 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Minh B và bà Trần Thị H; ông S không tranh chấp phần 0,9m2 này, nên diện tích đất ông S tranh chấp chỉ còn lại 36m2 tại các điểm 39, 40, 41, 32.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn C: chưa cung cấp ý kiến, tài liệu, chứng cứ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị P do ông Nguyễn Lưu Q đại diện trình bày: thống nhất với ý kiến của ông S.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị Kim L1 trình bày: thống nhất với ý kiến của ông S.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác: chưa cung cấp ý kiến.
Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhưng đương sự vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.
Tại phiên tòa:
- Ông Nguyễn Văn L trình bày: ông rút lại yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế là căn nhà tọa lạc trên thửa đất số 43, tờ bản đồ số 10 địa chỉ: 1 khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A, vì ông Nguyễn Văn S đã xây dựng lại nên không còn là di sản thừa kế. Ông thay đổi yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế là thửa đất số 43, tờ bản đồ số 10 địa chỉ nêu trên, cụ thể: ông xác định diện tích thửa đất yêu cầu chia di sản thừa kế là 36m2 tại các điểm 39, 40, 41, 32 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh L2 lập ngày 28 tháng 9 năm 2022. Ông thống nhất xác định đây là di sản thừa kế của cha mẹ là cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P1 chết để lại. Những người thuộc hàng thừa kế của cụ B1 và cụ P1 là ông L, ông S, anh C. Ông L thống nhất xác định giá trị di sản thừa kế là 233.280.000 đồng theo Biên bản định giá ngày 07 tháng 7 năm 2023. Ông L thống nhất có xem xét công Sức đóng góp, quản lý, tôn tạo di sản của ông S là 23.280.000 đồng, nên giá trị di sản còn lại là 210.000.000 đồng, mỗi kỷ phần thừa kế là 70.000.000 đồng. Ông L thống nhất giao cho ông S được nhận nhà, đất tại địa chỉ số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L; ông S phải giao cho anh C kỷ phần mà anh C được hưởng là 70.000.000 đồng; ông S phải giao cho ông L 300.000.000 đồng là phần kỷ phần mà ông L được hưởng vì ông L có nhiều công sức phụ giúp cha mẹ, như thỏa thuận tại biên bản hòa giải trước đây của Tòa án. Ông L tự nguyện chịu các chi phí tố tụng.
- Ông Nguyễn Lưu Q, ông Nguyễn Văn S và bà Võ Thị P cùng thống nhất trình bày: rút lại yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện. Thống nhất với ý kiến của ông L về việc xác định di sản thừa kế, hàng thừa kế, giá trị di sản thừa kế. Sau khi cha mẹ chết thì ông S là người trực tiếp sinh sống trên thửa đất là di sản cha mẹ đề lại, trực tiếp trông nom, quản lý, tôn tạo di sản nên yêu cầu phải xem xét công Sức của ông S là 23.280.000 đồng và khấu trừ vào giá trị di sản, nên di sản còn lại giá trị 210.000.000 đồng. Do gia đình ông S đang sinh sống trên thửa đất là di sản thừa kế nên ông S yêu cầu được nhận di sản là thửa đất, ông S sẽ trả lại cho anh C kỷ phần mà anh C được hưởng là 70.000.000 đồng. Còn đối với ông L, do trước khi cha mẹ chết ông L có nhiều công Sức phụ giúp cha mẹ, nên ông S tự nguyện giao cho ông L 300.000.000 đồng.
- Luật sư Trần Văn N phát biểu ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Nguyễn Văn L: tại phiên tòa, các đương sự đã thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án, nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, là đảm bảo theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn và bà P, chị L1 đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Đối với những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng mặt không lý do, không trình bày ý kiến là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại các Điều 70, 73 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thì nhà và đất tọa lạc tại số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L có nguồn gốc là tài sản tạo lập trong thời kỳ hôn nhân của cụ Nguyễn Văn B1 (chết năm 1960) và cụ Huỳnh Thị P1 (chết năm 1989), hiện nhà và đất nêu trên chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà. (1) Về yêu cầu chia di sản thừa kế nguyên đơn và bị đơn đều trình bày hàng thừa kế gồm 03 người là Nguyễn Văn L (sinh năm 1955), Nguyễn Văn S (sinh năm 1957) và Nguyễn Thị Kim Q1 (chết năm 2001), bà Q1 có chung sống như vợ chồng với Nguyễn Hồng D nhưng không có đăng ký kết hôn, có 01 người con chung Nguyễn Văn C (sinh năm 1982) từ khi mang thai bà Q1 đã ly thân với ông D, dọn về sinh sống cùng mẹ ruột bà P1. (2) Về di sản: Sau khi cụ P1 mất thì đến năm 1990, ông S có sửa chữa nhà có báo chính quyền, địa phương cấp phép, tháo bỏ hoàn toàn nhà cũ và xây dựng lại mới, có thêm gác (theo các tài liệu Đơn xin sửa chữa nhà do ông Nguyễn Văn S đứng đơn được Ủy ban nhân dân phường M xác nhận ngày 02 tháng 4 năm 1990; Mẫu kê khai đăng ký nhà đất mang tên ông Nguyễn Văn S, bà Võ Thị P2 được lập ngày 06 tháng 8 năm 1991; Biên bản v/v giám định hiện trạng nhà đất do Phòng Quản lý đô thị thành phố L lập ngày 28 tháng 10 năm 1997). Nguyên đơn và bị đơn đều xác định căn nhà là tài sản riêng của ông S. Nguyên đơn tự nguyện xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện không chia thừa kế đối với căn nhà nêu trên. (3) Đối với di sản là quyền sử dụng đất đối với phần đất nêu trên thì các đồng thừa kế là ông L, ông S đều thừa nhận đây là di sản chung chưa chia và đều nhất trí chia cho những người trong hàng thừa kế. Ông L, ông S đều thống nhất giao cho ông S được quyền tiếp tục sử dụng diện tích nhà và đất nên trên, ông S đồng ý chia lại kỷ phần cho ông L là 300.000.000 đồng. Tuy nhiên, đối với giá trị kỷ phần của anh C thì xác định giá theo Biên bản định giá tài sản ngày 07 tháng 7 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố X. Nhận thấy, trong phần di sản thừa kế của cụ B1, cụ P1 có công Sức của ông S là người quản lý trực tiếp di sản trong việc đã chi tiền sửa chữa nhà, bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị đất nên ông S được hưởng thêm giá trị tương đương 10% giá trị đất theo Biên bản định giá tài sản ngày 07 tháng 7 năm 2023 đối công sức đóng góp của mình trong di sản thừa kế. Xác định giá trị từng kỷ phần là 233.280.000 đồng - 10% x 233.280.000 đồng (giá trị công sức đóng góp của ông S) = 210.000.000 đồng (ông S, ông L tự nguyện làm tròn số) chia 03 phần, mỗi kỷ phần có giá trị là 70.000.000 đồng. (4) Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ các Điều 05, 244 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 609, 612, 613, 618, 650, 651 Bộ luật Dân sự năm 2015. Chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của nguyên đơn. Chia di sản thừa kế của các cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P3 là phần đất tọa lạc tại số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L. Khấu trừ 10% giá trị di sản cho ông Nguyễn Văn S do có công sức bảo quản, giữ gìn, tôn tạo làm tăng giá trị di sản. Giao cho ông Nguyễn Văn S được quyền tiếp tục sử dụng diện tích đất nêu trên. Ghi nhận sự tự nguyện của ông S giao giá trị kỷ phần cho ông Nguyễn Văn L là 300.000.000 đồng. Buộc ông S có nghĩa vụ phải hoàn lại giá trị kỷ phần thừa kế cho anh Nguyễn Văn C với số tiền 70.000.000 đồng. Đình chỉ đối với yêu cầu chia di sản thừa kế là căn nhà tọa lạc tại số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L do ông Nguyễn Văn S đang sinh sống, quản lý.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, kiểm sát viên, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế, bị đơn có nơi cư trú tại thành phố L. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án dân sự về “Tranh chấp chia di sản thừa kế” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố X.
[2] Về thủ tục tố tụng:
[2.1] Các ông bà anh chị Nguyễn Văn C, Nguyễn Thị Kim L1, Thiều Quang V, Nguyễn Thị Kim T1, Lung Vũ T3, Trần Minh B, Trần Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt; nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2.2] Khi khởi kiện, ông Nguyễn Văn L có cung cấp Giấy ủy quyền ngày 27 tháng 11 năm 2020 của anh Nguyễn Văn C cho ông Nguyễn Văn L với nội dung “Thay mặt tôi đi đến cơ quan chức năng để hòa giải (giải quyết) các vấn đề có liên quan đến việc được thừa kế của mẹ tôi tên Nguyễn Thị Kim Q1 được thừa hưởng” mà không nêu rõ nội dung ủy quyền cho ông L được đại diện anh C tham gia tố tụng, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định ông Nguyễn Văn L không phải là người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Văn C tham gia tố tụng giải quyết vụ án.
[2.3] Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế: ông Nguyễn Lưu Q là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Văn S có đơn yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện. Nhưng tại phiên tòa, ông Q và ông S xác định rút lại yêu cầu này, và đều thống nhất xác định tài sản đang tranh chấp là di sản thừa kế chưa chia, thống nhất việc chia di sản này. Xét thấy: việc rút yêu cầu này của đương sự là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy, vụ án này thuộc trường hợp các đương sự không yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự. Mặt khác, tài sản có tranh chấp được các bên xác định có nguồn gốc là của cụ B1 chết trước năm 1975, cụ P1 chết năm 1989 cùng tạo lập. Đến ngày 15 tháng 3 năm 2021, ông L có đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế. Nhưng trước đó, ông L đã có tranh chấp chia di sản thừa kế với ông S được Tổ hòa giải khóm Đ, phường Đ, thành phố L giải quyết. Và theo Biên bản hòa giải ngày 10 tháng 11 năm 2020 tại Văn phòng K thể hiện ông S thừa nhận phần nhà và đất tại địa chỉ số A, khóm Đ, phường Đ, thành phố L là của cha, mẹ chết để lại; do ông quản lý và sử dụng từ khi cha, mẹ chết cho đến này. Khi nào bán được nhà thì ông S chia đều cho cả 03 người là ông S, ông L và bà Q1 (cháu C nhận). Như vậy, căn cứ vào Điều 157 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế trong trường hợp của ông L, ông S được bắt đầu lại kể từ ngày tiếp theo sau ngày hòa giải 10 tháng 11 năm 2020 (ngày ông S thừa nhận nghĩa vụ về việc chia di sản thừa kế).
[3] Về nội dung tranh chấp:
[3.1] Về hàng thừa kế:
[3.1.1] Các đương sự đều thừa nhận tài sản có tranh chấp là di sản thừa kế của cha mẹ là cụ Nguyễn Văn B1 chết trước năm 1975 (không rõ ngày, tháng, năm) và cụ Huỳnh Thị P1 chết năm 1989 để lại chưa được phân chia; những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ B1 và cụ P1 gồm có: ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S, bà Nguyễn Thị Kim Q1 (đã chết, có con là anh Nguyễn Văn C) và cam đoan không bỏ sót người nào khác thuộc hàng thừa kế của cụ B1 và cụ P1.
[3.1.2] Đối với bà Nguyễn Thị Kim Q1 (con của cụ B1 và cụ P1) có chung sống như vợ chồng với ông Nguyễn Hồng D từ năm 1982 trong thời gian ngắn nhưng không có đăng ký kết hôn, đến lúc bà Q1 có bầu Nguyễn Văn C (năm 1982) thì ông D và bà Q1 chia tay nhau, ông D đã kết hôn với người khác (theo lời khai của ông L, ông S). Từ năm 1982 cho đến năm 2001 (khi bà Q1 chết) thì bà Q1 sống với cụ P1 và không chung sống như vợ chồng với ai, không kết hôn với ai. Như vậy, căn cứ Án lệ số 41/2021/AL về Chấm dứt hôn nhân thực tế được công bố theo Quyết định số 42/QĐ-CA ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thì bà Q1 và ông D tuy chung sống với nhau không đăng ký kết hôn từ năm 1982, nhưng cũng từ năm 1982 đã không còn chung sống, ông D đã kết hôn với người khác, từ đó đến nay quan hệ hôn nhân thực tế giữa bà Q1 và ông D đã chấm dứt, nên không còn nghĩa vụ gì với nhau. Vì vậy, các đương sự xác định anh C là người thừa kế của bà Q1, nên được nhận đối với phần di sản mà bà Q1 được hưởng từ cụ B1 và cụ P1 là phù hợp với quy định pháp luật.
[3.1.3] Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định những người thừa kế của cụ B1 và cụ P1 gồm có: ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S và anh Nguyễn Văn C.
[3.2] Về di sản thừa kế:
[3.2.1] Ông L và ông S đều thừa nhận thửa đất thửa đất số 43, tờ bản đồ số 10 tọa lạc tại địa chỉ nêu trên có diện tích 36m2 tại các điểm 39, 40, 41, 32 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2 lập, có nguồn gốc do cụ B1 và cụ P1 tạo lập, là di sản của cụ B1 và cụ P1 để lại. Ông L, ông S đều không tranh chấp đối với phần đất diện tích 0,9m2 tại các điểm 16, 39, 47 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2 lập, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Minh B và bà Trần Thị H. anh C không cung cấp ý kiến phản đối vấn đề này. Vì vậy, Hội đồng xét xử xác định thửa đất diện tích 36m2 này là di sản thừa kế của cụ B1 và cụ P1 để lại.
[3.2.2] Đối với nhà ở tọa lạc tại số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L nằm trên thửa đất số 43, tờ bản đồ số 10 theo bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2 lập: căn cứ vào các tài liệu mà bị đơn cung cấp thể hiện vào năm 1990 ông S đã thực hiện sửa chữa nhà có báo chính quyền, địa phương cấp phép, tháo bỏ hoàn toàn nhà cũ và xây dựng lại mới, có thêm gác. Do đó, ông L và ông S đều xác định căn nhà này là tài sản riêng của ông S, không phải là di sản thừa kế của cụ B1 và cụ P1 để lại. Ông L cũng tự nguyện rút lại yêu cầu khởi kiện không chia thừa kế đối với căn nhà này.
[3.3] Về giá trị di sản thừa kế: tại phiên tòa ông L và ông S đều tự nguyện xác định giá trị thửa đất là di sản thừa kế là: 233.280.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản ngày 07 tháng 07 năm 2023 của Hội đồng định giá do Tòa án thành lập.
[3.4] Về công Sức tôn tạo, giữ gìn khối di sản: quá trình sử dụng thửa đất, ông S đã có công sức tôn tạo, đắp nền, đóng góp làm đường cùng địa phương nên giá trị thửa đất được tăng lên, ông S còn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất hằng năm. Vì vậy, cần xem xét cồng sức tôn tạo, bảo quản, quản lý di sản của ông S trong việc phân chia di sản để ông S được hưởng kỷ phần nhiều hơn. Tại phiên tòa, ông L và ông S tự nguyện xem xét xác định công sức đóng góp của ông S theo tỷ lệ 10% trên tổng giá trị tài sản tranh chấp, cụ thể là 23.280.000 đồng (làm tròn). Thỏa thuận này của ông L và ông S là phù hợp với quy định tại Điều 618 Bộ luật Dân sự và Án lệ số 05/2016/AL về “Tranh chấp di sản thừa kế” được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
[3.5] Về phân chia di sản thừa kế:
[3.5.1] Theo Biên bản định giá tài sản ngày 07 tháng 7 năm 2023, sự thỏa thuận của các đương sự; có đủ căn cứ để xác định giá trị từng kỷ phần mà ông L, ông S, anh C được nhận là:
- Di sản còn lại sau khi xem xét công sức đóng góp của ông S là: 233.280.000 đồng - 23.280.000 đồng (giá trị công Sức đóng góp của ông S được nhận) = 210.000.000 đồng.
- Mỗi kỷ phần có giá trị là 210.000.000 đồng : 03 = 70.000.000 đồng [3.5.2] Từ sau khi cụ P1 chết, ông S và gia đình ông S là những người sinh sống thường xuyên, liên tục trên thửa đất mà cụ B1 và cụ P1 để lại. Ông S đã tháo bỏ căn nhà của cụ B1, cụ P1 để xây dựng lại căn nhà làm nơi sinh sống của gia đình ông như hiện nay. Ông L cũng không yêu cầu nhận di sản bằng hiện vật. Ông L và ông S đều thống nhất giao cho ông S được quyền sử dụng thửa đất là di sản nêu trên thay cho kỷ phần và công sức đóng góp mà ông S được hưởng. Ông S cũng tự nguyện thống nhất giao cho ông L kỷ phần là 300.000.000 đồng, nhiều hơn giá trị kỷ phần mỗi người được hưởng do khi cha mẹ còn sống ông L đã phụ giúp gia đình rất nhiều. Xét thấy: đây là sự tự nguyện của ông S và không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên cần được công nhận đề giao cho ông S được quyền sử dụng thửa đất là di sản thừa kế của cụ B1, cụ P1 và ông S có nghĩa vụ giao lại kỷ phần mà ông L, anh C được nhận bằng giá trị kỷ phần.
[3.5.3] Đối với kỷ phần của anh C thì ông L, ông S đều thống nhất xác định theo Biên bản định giá tài sản ngày 07 tháng 7 năm 2023 và có trừ phần công Sức đóng góp ông S được hưởng, nên anh C được nhận kỷ phần là 70.000.000 đồng. Xét thấy: việc anh C được nhận kỷ phần theo giá trị di sản này là phù hợp với quy định pháp luật, sự thỏa thuận của đương sự là ông L, ông S; anh C không cung cấp ý kiến về việc phân chia di sản, giá trị kỷ phần được hưởng; nên Hội đồng xét xử xác định ông S có nghĩa vụ giao trả cho anh C số tiền 70.000.000 đồng là kỷ phần mà anh C được nhận.
[4] Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, ông L đều xác định ông rút yêu cầu khởi kiện phân chia di sản thừa kế là nhà ở tọa lạc tại địa chỉ số A khóm Đ, phường Đ thành phố L. Xét thấy: việc rút yêu cầu này của ông L là hoàn toàn tự nguyện, không bị lừa dối, ép buộc; do đó, cần được chấp nhận đề đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu này.
[5] Đối với phần diện tích đất 0,9m2 tại các điểm 16, 39, 47 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Minh B và bà Trần Thị H theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2 lập: ông L và ông S đều xác định không có tranh chấp đối với phần diện tích này. Ông B, bà H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cũng không cung cấp ý kiến hoặc có tranh chấp. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét về vấn đề này.
[6] Về chi phí tố tụng: chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản trong vụ án là 4.194.200 đồng do ông L đã nộp tạm ứng; tại phiên tòa ông L xác định ông tự nguyện chịu toàn bộ chi phí này.
[7] Về án phí: ông L, ông S phải chịu án phí tính trên kỷ phần mình được nhận, nghĩa vụ phải thực hiện, tuy nhiên ông L và ông S là người cao tuổi, có đơn xin miễn án phí, nên không phải chịu án phí sơ thẩm. Anh C phải chịu án phí tính trên kỷ phần mình được nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Các Điều 05, 26, 35, 39, 147, 157, 165, 184, 217, 227, 228, 244, 271, 273, 278, 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Các Điều 157, 609, 612, 613, 618, 623, 649, 650, 651, 660 Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Các Điều 12, 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn S đối với việc chia di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P1.
1.2 Xác định những người thuộc hàng thừa kế của cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P1 gồm có: ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S, anh Nguyễn Văn C.
1.3 Di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P1 là quyền sử dụng đối với thửa đất số 43, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A, có diện tích diện tích 36m2 tại các điểm 39, 40, 41, 32 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2, tỉnh A lập.
1.4 Về phân chia di sản thừa kế:
- Ông Nguyễn Văn S được quyền sử dụng đối với thửa đất số 43, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại số A khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A, có diện tích diện tích 36m2 tại các điểm 39, 40, 41, 32 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất ngày 28 tháng 9 năm 2022 do Văn phòng Đ2 Chi nhánh L2, tỉnh A lập, là di sản thừa kế của cụ Nguyễn Văn B1 và cụ Huỳnh Thị P1.
- Ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S, anh Nguyễn Văn C có nghĩa vụ liên hệ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề hoàn thành trình tự, thủ tục, kê khai, đăng ký và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Nguyễn Văn S theo quy định của pháp luật.
- Ông Nguyễn Văn S có nghĩa vụ giao cho anh Nguyễn Văn C số tiền 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng) là kỷ phần thừa kế mà anh Nguyễn Văn C được nhận.
- Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận của ông Nguyễn Văn L và ông Nguyễn Văn S về giao kỷ phần thừa kế mà ông Nguyễn Văn L được nhận: ông Nguyễn Văn S có nghĩa vụ giao cho ông Nguyễn Văn L số tiền 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng).
- Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
2. Đình chỉ giải quyết yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn L đối với tài sản là nhà ở tọa lạc tại địa chỉ số A, khóm Đ, phường Đ, thành phố L, tỉnh A.
3. Về chi phí tố tụng:
Ông Nguyễn Văn L tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản là 4.194.200 đồng (bốn triệu một trăm chín mươi bốn nghìn hai trăm đồng), đã nộp xong.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Nguyễn Văn L, ông Nguyễn Văn S đều được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Nguyễn Văn C phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là: 3.500.000 đồng (ba triệu năm trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo:
Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 208/2023/DS-ST về tranh chấp chia di sản thừa kế
Số hiệu: | 208/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về