TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 63/2023/DS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG DO SỨC KHỎE BỊ XÂM PHẠM
Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 32/2023/TLST - DS ngày 09 tháng 6 năm 2023 về “tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2023/QĐXXST-DS ngày 29 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 165/2023/QĐST-DS ngày 20 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Lê Viết H, sinh năm 1966. Có mặt
2. Bị đơn: ông Cao Đình T, sinh năm 1959. Có mặt
Cùng địa chỉ: thôn K, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/5/2023, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn - ông Lê Viết H trình bày: vào ngày 03/5/2022, ông Cao Đình T đã đánh ông H gãy xương sườn phải nhập viện điều trị tại Trung tâm Y tế huyện Quế Sơn từ ngày 03/5/2022 đến ngày 09/5/2022 và Bệnh viện đa khoa Quảng Nam từ ngày 13/5/2022 đến ngày 17/5/2022. Nay, ông H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Th bồi thường thiệt hại về sức khỏe, cụ thể như sau:
- Chi phí điều trị tại Trung tâm Y tế huyện Quế Sơn: 1.234.287 đồng.
- Chi phí điều trị tại Bệnh viện đa khoa Quảng Nam: 1.620.044 đồng.
- Tiền mua thuốc về nhà uống: 520.000 đồng.
- Tiền bồi dưỡng: 150.000 đồng x 30 ngày = 4.500.000 đồng.
- Tiền xe chuyển viện về nhà: 300.000 đồng.
- Tiền xe chuyển tuyến Quế Sơn – Tam Kỳ: 1.200.000 đồng.
- Tiền công lao động trong những ngày nằm viện và dưỡng bệnh ở nhà:
1.000.000 đồng x 30 ngày = 30.000.000 đồng.
- Tiền công người chăm sóc: 550.000 đồng x 12 ngày = 6.000.000 đồng.
- Tiền tổn thất tinh thần: 20.000.000 đồng.
Tổng cộng 65.374.331 đồng. Ông H không yêu cầu gì thêm.
Tại bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, bị đơn – ông Cao Đình T trình bày: vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 03/5/2022, khi ông H phát dọn đất để trồng keo, ông H có nói với bà C (vợ của ông Th) về việc cắt cây mít để ông H trồng keo. Bà C nhờ ông H sẵn cưa thì cắt giùm cây, bao nhiêu tiền công bà C trả. Ông H nói: “tau cắt mi bắt đền”. Giữa ông H và bà C xảy ra cãi vả. Ông Th đang đào cây sả, nghe cãi vả thì đi đến và bảo “mi có cái cưa thì cắt giùm chứ chi mà làm hung…” Bà C can ngăn nên ông Th đi về. Khi ông Th quay lưng đi về thì nghe tiếng “rầm”, ông Th quay lại thấy bà A (vợ của ông H) đánh bà C, bà A ngồi trên người bà C. Ông Th chạy lại lôi bà A ra. Ông H cầm cái cuốc đánh thẳng vào người ông Th, trúng vào tay trái của ông Th. Ông Th nắm cán cuốc để ngăn cản hành vi tấn công của ông H. Hai bên giằng co cùng ngã vào bờ rào, ông H dùng hai chân đạp vào háng của ông Th. Ông Th kẹp chân lại và lấy tay gỡ ra nhưng không được. Bà Liễu chạy lại can ngăn, nói: “ông H không đi làm, bị đau gần 10 ngày rồi mà đánh lộn chi”. Ông H chạy đi tìm cục đá để ném ông Th, nhưng được mọi người can ngăn. Ông Th được ông Đông và con trai tên Huân gọi xe taxi đưa đi bệnh viện. Khi công an xã vào lập biên bản, ông Th bị sưng ở cánh tay trái, bà C bị đánh sưng cằm, rách mặt. Công an thu giữ 01 cái cuốc, 01 cục đá của ông H. Nay ông H khởi kiện, ông Th không thống nhất. Ông Th yêu cầu Toà án xác minh, điều tra xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ bao gồm: nguyên đơn nộp 01 bản chính giấy xác nhận; 02 bản phô tô giấy ra viện; 02 bản phô tô đơn thuốc; 01 bản chính thông báo kết luận giám định; 01 bản chính thông báo kết quả giải quyết nguồn tin tội phạm; 01 bản chính hoá đơn bán lẻ; 01 bản sao căn cước công dân; 01 bản sao sổ hộ khẩu. Bị đơn nộp 01 đơn xin miễn án phí. Toà án thu thập: toàn bộ hồ sơ giải quyết tại Công an huyện Quế Sơn, biên bản xác minh.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 584, 585, 590 Bộ luật Dân sự chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: ông Cao Đình T có nơi cư trú tại thôn K, xã C, huyện Q, tỉnh Quảng Nam. Ông H khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Do đó, quan hệ pháp luật giải quyết là “tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam theo khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[2.1] Về hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả:
Theo Thông báo kết quả giải quyết nguồn tin về tội phạm số 216/TB- ĐTTH ngày 07/7/2022 của Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn xác định: vào lúc 10 giờ ngày 03/5/2022, ông H dọn đất ở vườn nhà để trồng cây. Do cây của nhà ông Th ngã sang đất của nhà ông H nên giữa ông H và bà C (vợ ông Th) xảy ra mâu thuẫn, cãi vả. Lúc này, ông Th và bà A (vợ của ông H) đi đến. Bà A dùng tay phải đánh một cái trúng vào vùng gò má bên phải của bà C. Bà A và bà C ôm vật nhau ngã xuống đường bê tông. Ông H và ông Th ôm nhau vật xuống đường bê tông. Ông Th dùng chân đè lên ngực của ông H làm gãy một xương sườn số 3 bên ngực trái”. Ngày 14/7/2022, Công an xã Quế Châu lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Cao Đình T, ông Th không ký biên bản. Ngày 01/8/2022, Công an huyện Quế Sơn đã ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-XPHC xử phạt ông Cao Đình T về hành vi “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Sau khi nhận Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 48/QĐ-XPHC Công an huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, ông Th không khiếu nại hoặc khởi kiện Quyết định xử lý vi phạm hành chính của Công an huyện Quế Sơn theo quy định của pháp luật. Do đó, Quyết định trên có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, xác định ông Th có hành vi gây thương tích cho ông H thuộc trường hợp các tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hơn nữa, ông Th cũng thừa nhận khi bà A và bà C đánh nhau, ông Th và ông H cũng giằng co cái cuốc, cả hai ngã xuống đường. Tại biên bản ghi lời khai các ngày 08/5/2022, 27/6/2022, ông Bùi Văn Ch trình bày: “tôi thấy người đàn ông (khoảng 60 tuổi, dáng người cao, tóc bạc) đứng ở trên, ông H nằm sát mép đường bê tông, người đàn ông đó dùng chân đè lên ngực của ông H và dùng lực chân ấn xuống ngực của ông H…”. Lời khai của ông Ch phù hợp với lời khai của bà Trương Thị Cẩm G tại biên bản ghi lời khai các ngày 08/5/2022, 27/6/2022: “Khi lại gần tôi thấy ông H nằm dưới đất, tay nắm lưng quần của ông Th. Ông Th dùng chân ấn lên người của ông H, tại vị trí ngực, ấn lên ấn xuống chứ không phải co chân lên đạp…”.
Vì vậy, có đủ căn cứ để xác định thương tích của ông H là do ông Th gây ra. Do đó, việc ông H yêu cầu ông Th bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự.
[2.2]. Xét các khoản chi phí yêu cầu bồi thường:
1. Về chi phí điều trị tại Trung tâm Y tế huyện Quế Sơn: tại bảng kê chi phí nội trú ngày 09/5/2022, tổng chi phí điều trị là 1.234.287 đồng, bảo hiểm xã hội thanh toán 987.429 đồng; người bệnh thanh toán 246.857 đồng. Như vậy, chi phí hợp lý cho việc cứu chữa bệnh là số tiền là 246.857 đồng nên chấp nhận; không chấp nhận tiền do bảo hiểm xã hội thanh toán 987.429 đồng.
2. Về chi phí điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Nam: tại bảng kê chi phí nội trú ngày 17/5/2022, hoá đơn bán hàng ngày 17/5/2023 và bảng kê chi phí ngoài danh mục BHYT thì người bệnh thanh toán 328.486 đồng. Như vậy, đây là chi phí hợp lý cho việc cứu chữa bệnh nên chấp nhận với số tiền là 328.486 đồng.
3. Chi phí mua thuốc về nhà: theo hoá đơn bán lẻ ngày 21/5, ông H mua 520.000 đồng. Tuy nhiên, các loại thuốc ghi trong hoá đơn không có chỉ định của bác sĩ. Hoá đơn bán lẻ không ghi năm viết hoá đơn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận số tiền 520.000 đồng.
4. Về chi phí đi lại: tiền xe chuyển viện đi đến Trung tâm y tế huyện Quế Sơn và về nhà: 150.000 đồng x 2 chuyến = 300.000 đồng. Tiền xe chuyển tuyến Quế Sơn – Tam Kỳ: 1.200.000 đồng. Tổng cộng chi phí vận chuyển là 1.500.000 đồng. Căn cứ vào giấy xác nhận và hợp đồng thuê xe, xét thấy đây là chi phí hợp lý cho việc cứu chữa bệnh nên chấp nhận số tiền là 1.500.000 đồng.
5. Chi phí bồi dưỡng sức khoẻ: ông H yêu cầu bồi thường chi phí bồi dưỡng là 150.000 đống/ngày. Căn cứ vào điểm b, khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho người bị thiệt hại được xác định là 01 ngày lương tối thiểu vùng tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cho 01 ngày khám bệnh, chữa bệnh theo số ngày trong hồ sơ bệnh án. Căn cứ vào Nghị định 38/2022/NĐ-CP ngày 12/6/2022 của Chính Phủ thì mức lương tối thiểu vùng tại huyện Quế Sơn là 3.640.000 đồng/tháng (một tháng 26 ngày), tương ứng 140.000 đồng/ngày. Căn cứ vào giấy ra viện, ông H điều trị 12 ngày. Vì vậy, chấp nhận chi phí bồi dưỡng sức khỏe cho ông H với số tiền là 12 ngày x 140.000 đồng = 1.680.000 đồng.
6. Về tiền ngày công lao động bị mất khi điều trị: căn cứ vào Giấy ra viện, ông H điều trị tại Trung tâm Y tế huyện Quế Sơn từ ngày 03/5/2022 đến ngày 09/5/2022 là 07 ngày. Tại giấy ra viện, có phần ghi chú dùng thuốc theo đơn thuốc, Trung tâm Y tế huyện Quế Sơn chỉ định dùng thuốc trong 05 ngày. Từ ngày 13/5/2022 đến ngày 17/5/2022 (05 ngày) ông H điều trị tại Bệnh viện đa khoa Quảng Nam. Giấy ra viện có phần ghi chú dùng thuốc theo đơn thuốc, Bệnh viện đa khoa Quảng Nam chỉ định dùng thuốc trong 07 ngày. Như vậy, số ngày công lao động bị mất là 24 ngày. Ông H yêu cầu ông Th bồi thường công lao động bị mất trong 01 tháng là chưa phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận số ngày công ông H bị mất là 24 ngày.
Ông H yêu cầu tính công lao động mỗi ngày 1.000.000 đồng. Ông H cho rằng vào tháng 5/2022, ông H nhận cày ruộng thuê. Theo biên bản xác minh ngày 24/8/2023, Trưởng thôn Khánh Đức cho biết: “ông H làm công việc cày bừa thuê bằng máy, mỗi ngày ông H nhận cày được khoảng 6-7 sào ruộng trở lên, tiền công mỗi sào là 235.000 đồng. Vào tháng 5/2022, tại địa phương vào cuối vụ đông xuân, người dân cày bừa để chuẩn bị sản xuất vụ hè thu. Hiện nay, mức lương lao động phổ thông tại địa phương trung bình là 300.000 đồng/ngày”. Như vậy, thu nhập thực tế của ông H mỗi ngày từ 1.410.000 đồng đến 1.645.000 đồng. Ông H yêu cầu tính ngày công lao động mỗi ngày 1.000.000 đồng là thấp hơn thu nhập thực tế của ông H. Tại phiên toà, ông Th cũng thừa nhận ông H làm nghề cày bừa thuê bằng máy. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, chấp nhận số tiền bồi thường ngày công lao động bị mất là 24 ngày x 1.000.000 đồng = 24.000.000 đồng.
7. Về tiền ngày công lao động cho người chăm sóc: trong thời gian ông H điều trị tại bệnh viện, anh Lê Viết Thành H là người chăm sóc. Ông H cho rằng anh Huân là thợ điện nước dân dụng, lương mỗi ngày 550.000 đồng nên yêu cầu tính công của anh Huân mỗi ngày 500.000 đồng. Tuy nhiên, ông H không có chứng cứ chứng minh ông Huân là thợ điện nước, không cung cấp được hợp đồng lao động, bảng lương của anh Huân mà chỉ có 01 giấy xác nhận của ông Nguyễn Hảo là không phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy áp dụng mức lương lao động phổ thông tại địa phương đối với anh Huân là 300.000 đồng/ngày. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ- HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, chấp nhận yêu cầu bồi thường tiền công lao động bị mất của người nuôi: 300.000 đồng x 12 ngày = 3.600.000 đồng.
8. Về tổn thất tinh thần: thương tích của ông H là do ông Th gây ra, vì vậy ông Th có nghĩa vụ bồi thường tổn thất tinh thần cho ông H theo quy định tại khoản 2 Điều 590 Bộ luật Dân sự. Tuy nhiên, việc ông H yêu cầu bồi thường số tiền 20.00.000 đồng là không phù hợp. Căn cứ vào kết luận giám định, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 2% nên Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu của ông H, buộc ông Th bồi thường 01 tháng lương cơ sở, tương đương số tiền 1.800.000 đồng.
Tổng cộng số tiền là 33.155.343 đồng.
[2.3]. Về mức độ lỗi: khi thấy bà A và bà C đánh nhau, ông Th đến kéo bà A ra. Đáng lẽ, ông H nên can ngăn hoặc báo chính quyền địa phương. Tuy nhiên, ông H và ông Th lại ôm, vật nhau xuống đường, gây thương tích cho ông H. Thiệt hại xảy cũng ra có một phần lỗi của ông H. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy ông H phải chịu 30% thiệt hại, tương ứng 9.946.602 đồng; số tiền còn lại là 23.208.741 đồng cần buộc ông Th phải bồi thường cho ông H.
[2.4] Đối với yêu cầu của ông Th về việc đề nghị Toà án điều tra, dựng lại hiện trường vụ việc là không phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Th là người cao tuổi; ông H là người yêu cầu bồi thường về sức khoẻ thuộc trường hợp miễn tiền án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[4]. Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 6 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 92, Điều 147, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 584, 585, 590 của Bộ luật Dân sự; Điều 7 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao; Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Viết H về việc “tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm”.
1. Ông Cao Đình T phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho ông Lê Viết H số tiền là 23.208.741 (Hai mươi ba triệu hai trăm lẻ tám nghìn bảy trăm bốn mươi mốt) đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm: ông Cao Đình T và ông Lê Viết H được miễn án phí.
3. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28-9-2023).
4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 63/2023/DS-ST về tranh chấp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do sức khỏe bị xâm phạm
Số hiệu: | 63/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Sơn - Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về